Là người phụ nữ đầu tiên được phong làm quan trong thời đại phong kiến ở Việt Nam - Ưu bà Phạm Thị Trân đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp ca múa, diễn xướng sân khấu dân gian, phục vụ không chỉ cung đình Hoa Lư, khích lệ quân đội, mà còn phục vụ rộng rãi trong nhân dân thời Vua Đinh Tiên Hoàng. Nhiều năm qua, các giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có nghệ thuật sân khấu chèo mà Ưu bà Phạm Thị Trân đã khai sáng tiếp tục được giữ gìn, phát huy và tỏa sáng trong đời sống tinh thần của người dân nhiều tỉnh, thành phố, trong đó có Ninh Bình.
Theo các tư liệu, thư tịch cổ như: "Đả cố lục" (nghĩa là "Phép đánh trống") và "Dư địa chí Hải Dương - phần nhân vật chí", có ghi rằng: Huyền nữ Phạm Thị Trân sinh năm 926, mất năm 976, người Hồng Châu (tỉnh Hải Dương ngày nay), là người giỏi hát, múa và làm trò nổi tiếng trong đám hý phường. Bà nổi tiếng là người xinh đẹp, tài sắc, có tài hát múa và được Vua Đinh Tiên Hoàng triệu vời về kinh đô Hoa Lư, dạy cung nữ múa hát, đánh trống, gảy đàn (bấy giờ gọi là hát nhời hay hát chèo) để phục vụ trong cung đình. Sau đó, bà được Vua Đinh giao cho dạy hát, múa và tổ chức các nhóm hát (tiền thân gánh hát sau này) phục vụ trong quân đội và trong nhân dân.
Với những đóng góp lớn lao của bà cho sự nghiệp đưa ca múa, diễn xướng sân khấu dân gian, phục vụ không chỉ cung đình Hoa Lư, khích lệ quân đội, mà còn phục vụ rộng rãi trong nhân dân, bà được Vua Đinh Tiên Hoàng phong chức "Ưu Bà". Bà cũng là người phụ nữ đầu tiên được phong làm quan trong thời đại phong kiến ở Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật chèo, tuồng và giới hoạt động trong hai ngành sân khấu tuồng, chèo tôn vinh bà là Tổ làng Chèo và Tổ Sân khấu Việt Nam. Kinh đô Hoa Lư xưa và Ninh Bình nay được coi là cái nôi của nghệ thuật hát và biểu diễn chèo, mà Ưu bà Phạm Thị Trân là Tổ nghề Chèo Việt Nam.
Tại tỉnh Ninh Bình hiện có 2 di tích thờ bà tổ nghề chèo Phạm Thị Trân là Phủ Chợ thuộc Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư (xã Trường Yên xưa), nay là phường Tây Hoa Lư và đền Vân Thị có từ thời Lý Thái Tông (phường Thanh Bình cũ), nay là phường Hoa Lư. Trong đó, Phủ Chợ là nơi lưu giữ bài vị, sắc phong của các vua triều Nguyễn từ thế kỷ XIX cho nhân dân thờ cúng Ưu bà. Trải qua thời gian, các sắc phong hiện không còn, phủ xưa cũng bị phá huỷ bởi chiến tranh. Năm 2021, nhân dân xã Trường Yên cũ đã góp công tu sửa, tôn tạo để thờ cúng bà. Hàng năm, vào ngày 8 tháng Giêng âm lịch, làng đều mở hội tưởng nhớ bà.
Tại đền Vân Thị - di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh, là địa chỉ quen thuộc để các thế hệ nghệ sĩ, diễn viên Nhà hát chèo Ninh Bình (cũ), nay là Nhà hát nghệ thuật truyền thống tỉnh Ninh Bình đến dâng hương, tri ân nhân vật lịch sử đã có công lao to lớn trong lịch sử dân tộc, đã được sử sách và nhân dân ghi nhận là Ưu bà Phạm Thị Trân - một danh nhân thời Đinh.
Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 20, HĐND tỉnh Ninh Bình (cũ) khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 41/NQ-HĐND ngày 10/7/2024 về việc đặt tên công trình công cộng Nhà văn hoá trung tâm tỉnh Ninh Bình là Nhà hát Phạm Thị Trân. Nghị quyết được ban hành đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ cao của người dân, các nhà khoa học, nghiên cứu lịch sử bởi việc làm này được đánh giá là hoàn toàn xứng đáng bởi tên bà đã được lịch sử ghi nhận, là bà tổ của ngành hát, ngành diễn xướng mang màu sắc văn hoá dân tộc Việt Nam mà nghệ thuật chèo là tiêu biểu.
Ngày 12/8 âm lịch hàng năm là ngày giỗ của Ưu bà Phạm Thị Trân, được lấy là ngày giỗ tổ chèo. Từ năm 2011, Thủ tướng Chính phủ quyết định lấy ngày 12/8 âm lịch hàng năm là “Ngày Sân khấu Việt Nam” theo Quyết định số 13/QĐ-TTg ngày 1/1/2011 cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với việc tôn vinh xứng đáng hơn nữa tên tuổi và sự nghiệp của Ưu bà.
Đối với tỉnh Ninh Bình, các hoạt động được tổ chức, duy trì nhiều năm qua thể hiện trách nhiệm cao của địa phương được coi là quê hương đối với Ưu bà. Qua đó cho thấy sự ngưỡng vọng và tầm ảnh hưởng sâu rộng của biểu tượng tổ chèo Ưu bà Phạm Thị Trân trong đời sống xã hội.
Tỉnh Ninh Bình (cũ) đã ban hành chính sách ưu đãi riêng cho các nghệ sỹ Nhà hát Chèo, tăng số vở diễn, lượt diễn, mở nhiều lớp dạy hát chèo cho hàng nghìn học viên của các câu lạc bộ chèo cơ sở; xây dựng, duy trì gần 300 câu lạc bộ văn nghệ, trong đó có 115 câu lạc bộ chèo truyền thống đang hoạt động với hàng nghìn thành viên tham gia luyện tập và sinh hoạt thường xuyên. Các câu lạc bộ này sẽ được hỗ trợ kinh phí hàng tháng nếu tham gia biểu diễn cho khách du lịch theo chính sách riêng của tỉnh. Trên địa bàn tỉnh đã có nhiều nghệ nhân hát chèo được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú trong thực hành di sản văn hóa phi vật thể...
Dù Ưu bà Phạm Thị Trân từ lâu đã được công nhận là bà tổ của nghệ thuật chèo, bà tổ đầu tiên của nghệ thuật sân khấu Việt Nam, ngày giỗ của bà đã được Chính phủ công nhận là ngày Giỗ tổ của sân khấu Việt Nam. Tuy vậy, thân thế và sự nghiệp của Ưu bà Phạm Thị Trân vẫn chưa được biết đến đầy đủ và rộng rãi. Ngay trong giới hoạt động chèo và sân khấu, không ít người vẫn không biết Ưu bà Phạm Thị Trân là ai. Sự tôn vinh của thế hệ hôm nay dành cho Ưu bà Phạm Thị Trân có lẽ còn chưa xứng đáng.
Để tiếp tục nghiên cứu, nhận diện, bổ sung, làm rõ những giá trị lịch sử, văn hóa được coi là biểu tượng văn hóa đặc trưng trong các giai đoạn phát triển của vùng đất Cố đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình (cũ) đã phối hợp với Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Viện Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc tổ chức Hội thảo khoa học “Thân thế, sự nghiệp Ưu bà Phạm Thị Trân” nhằm đánh giá tầm quan trọng về mặt lịch sử, văn hóa, nghệ thuật thể hiện qua thân thế, sự nghiệp của bà đối với nghệ thuật sân khấu Việt Nam nói chung và nghệ thuật hát Chèo của Việt Nam nói riêng. Đồng thời đề xuất phương hướng, giải pháp để ghi nhận, tiếp tục bảo tồn và phát huy di sản Ưu Bà Phạm Thị Trân trong việc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Câu chuyện của Ưu bà Phạm Thị Trân là câu chuyện lớn hơn nhiều về câu chuyện tổ nghề Chèo, mà là câu chuyện về sự nghiệp phục hưng nền văn hoá dân tộc, về nhu cầu Việt hoá để xây dựng hồn cốt dân tộc. Vinh danh bà không chỉ có tượng đồng, bia đá, nhà hát, đường phố, quảng trường mang tên bà, đưa bà vào sử sách, văn chương, dựng hình tượng trong ca múa sân khấu hoá cuộc đời... Mà vinh danh bà cần phải làm cho người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế hiểu được nghệ thuật sân khấu chèo có gốc tích từ đâu và bà là ngọn nguồn của gốc tích đó...