Kỳ 2: Vượt rào cản, khai phá tiềm năng
Nhận diện những thách thức
Dù đã có nhiều nỗ lực, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp sinh thái ở Ninh Bình vẫn đang phải đối mặt với không ít thách thức.
Thách thức đầu tiên, đó là diện tích canh tác được chứng nhận hữu cơ còn khiêm tốn, chỉ đạt 25,9 ha- một con số rất nhỏ chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Thứ hai, việc sở hữu đất đai còn manh mún, gây khó khăn cho việc áp dụng quy trình hữu cơ khép kín và truy xuất nguồn gốc, chứng nhận theo tiêu chuẩn quốc tế.
Thêm vào đó, chi phí sản xuất cao do giá phân bón hữu cơ và chế phẩm sinh học cao hơn phân bón vô cơ, trong khi năng suất sản phẩm hữu cơ còn hạn chế và giá cả chưa ổn định, khiến người nông dân thiếu động lực để chuyển đổi. Tác động của điều kiện xã hội như lao động nông nghiệp già hóa, thiếu lực lượng trẻ có trình độ, cùng với biến đổi khí hậu (hạn hán, ngập úng, xâm nhập mặn…) cũng ảnh hưởng trực tiếp đến canh tác hữu cơ, đặc biệt ở sản xuất lúa và thủy sản.
Ngoài ra, quy trình, thủ tục để đạt chứng nhận hữu cơ rất khắt khe, đòi hỏi thời gian và chi phí, khiến nhiều mô hình chỉ dừng ở “Sản xuất theo hướng hữu cơ” mà chưa thể tiến tới chứng nhận chính thức. Ở một khía cạnh khác, nhiều doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hữu cơ đang gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm, do thiếu sự phân biệt rõ ràng giữa sản phẩm hữu cơ và sản phẩm thông thường.
Ông Bùi Văn Tùng, Giám đốc HTX Nông sản hữu cơ Thanh Tùng NB chia sẻ, nỗi trăn trở lớn nhất là sản phẩm hữu cơ bị “vàng thau lẫn lộn” với các sản phẩm thông thường. Người tiêu dùng thiếu thông tin, không thể phân biệt được đâu là sản phẩm hữu cơ chất lượng, dẫn đến uy tín của những nhà sản xuất chân chính bị ảnh hưởng.
Đồng quan điểm, ông Phạm Tiến Duật, Phó Giám đốc Công ty TNHH dược liệu Vũ Gia nhấn mạnh sự cần thiết của các hỗ trợ từ Nhà nước: Bên cạnh việc đẩy mạnh truyền thông để người tiêu dùng nhận biết và tin tưởng lựa chọn sản phẩm hữu cơ, Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp có thể đạt được các chứng nhận hữu cơ, đặc biệt là chứng nhận quốc tế, qua đó tăng cường uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Tiềm năng và lợi thế để bứt phá
Sau sáp nhập tỉnh Ninh Bình có không gian phát triển nông nghiệp rộng lớn và đa dạng, đây được xem là một trong những tiềm năng đặc thù để phát triển mạnh mẽ nông nghiệp hữu cơ.
Với địa thế “tụ sơn tích thủy” và sự hội tụ đặc trưng địa lý của cả 3 vùng là đồng bằng châu thổ sông Hồng, Tây Bắc và Bắc Trung bộ, Ninh Bình sở hữu nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau. Mỗi vùng lại phù hợp với một loại sản phẩm hữu cơ đặc trưng: tiểu vùng đồi, núi, bán sơn địa thuận lợi cho phát triển kinh tế đồi rừng, nuôi trồng cây, con đặc sản, cây dược liệu; tiểu vùng trũng có thế mạnh để sản xuất lúa- cá, thủy sản, thủy cầm; tiểu vùng ven đô thị phát triển sản xuất rau, hoa công nghệ cao; tiểu vùng đồng bằng phát triển sản xuất lúa, rau. Đặc biệt, với 90 km bờ biển, đây là lợi thế lớn cho nuôi trồng thủy sản mặn lợ, sản xuất giống, khai thác xa bờ.
Thêm vào đó, Ninh Bình có nhiều đặc sản nông nghiệp nổi tiếng như: chuối ngự Đại Hoàng, dứa Đồng Giao, gạo nếp cau Kim Sơn, gạo tám xoan Nam Định, cá rô Tổng Trường, ngao Kim Sơn, Rạng Đông... Đây là những sản phẩm có tiềm năng lớn để phát triển theo hướng hữu cơ và nâng cao giá trị.
Ngoài ra, việc là điểm đến du lịch nổi tiếng toàn cầu, đã tạo cho Ninh Bình một đòn bẩy mạnh mẽ phát triển nông nghiệp đa giá trị. Các mô hình “cánh đồng du lịch” và “trang trại hữu cơ gắn trải nghiệm” có dư địa phát triển rất lớn, biến nông sản thành sản phẩm du lịch độc đáo, mang lại giá trị kinh tế cao.
Để tận dụng tối đa những lợi thế trên, Ninh Bình đang xây dựng một tầm nhìn chiến lược và các chính sách đột phá. Theo đó, tỉnh định hình một nền nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, an toàn, tuần hoàn, đa giá trị với việc ứng dụng công nghệ cao và phát triển nông nghiệp số. Các mục tiêu chiến lược bao gồm: Tập trung phát triển các sản phẩm nông nghiệp đặc sản, đặc hữu, đặc trưng phục vụ du lịch; hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung có quy mô phù hợp; đẩy mạnh công nghiệp chế biến, bảo quản; phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với vùng đồng bằng sông Hồng và thủ đô Hà Nội…
Ông Nguyễn Sinh Tiến, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Ninh Bình nhận định: “Thách thức lớn nhất hiện nay là làm sao để mở rộng quy mô sản xuất hữu cơ. Với tiềm năng của tỉnh, ngành nông nghiệp đã tập trung tham mưu, đề xuất các giải pháp, đặc biệt là thông qua cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp bền vững. Cụ thể, gồm: Đầu tư hạ tầng và công nghệ, xây dựng đồng bộ hạ tầng sản xuất, đặc biệt là hạ tầng thủy lợi để đảm bảo canh tác lúa “ướt - khô xen kẽ” nhằm giảm phát thải khí nhà kính. Hỗ trợ sản xuất lúa hữu cơ, hỗ trợ sử dụng giống đặc sản, phân bón hữu cơ và xây dựng các chuỗi liên kết sản xuất. Có chính sách hỗ trợ riêng cho sản xuất rau, củ, quả, hoa và cây dược liệu hữu cơ nhằm phục vụ du lịch. Hỗ trợ sản xuất các sản phẩm đặc sản để đạt chứng nhận hữu cơ, xây dựng thương hiệu và nhãn hiệu của tỉnh.
Với tầm nhìn chiến lược và sự đồng hành của các bên, Ninh Bình đang đón đầu xu thế nông nghiệp hữu cơ, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà còn nâng cao giá trị sản phẩm, tạo sinh kế và góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững trong tương lai.