Nhìn từ lý thuyết diễn ngôn hiện đại, cuốn sách dưới hình thức tự truyện là một diễn ngôn văn hóa về đời sống, về nghề báo - mà chỉ có tác giả mới đủ “thẩm quyền” nói ra và cắt nghĩa. Là một chính khách (nguyên Ủy viên Trung ương Đảng; nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương; nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam; nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân; Đại biểu Quốc hội các khóa X, XI; nguyên Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, nhiệm kỳ (2011-2016). Ông còn là nhà nghiên cứu văn hóa (với các tập sách giàu có hàm lượng khoa học, tiêu biểu như Con người Việt Nam thời hội nhập - NXB Chính trị Quốc gia, 2023...; Con người Việt Nam vào kỷ nguyên mới, NXB Chính trị Quốc gia, 2025). Là một nhà văn có phong cách (tiêu biểu là tập Đất nước qua những chặng đường làm báo, NXB Chính trị Quốc gia, 2007). Là một nhà thơ của 13 tập thơ viết trong 15 năm gần đây, được dư luận đánh giá cao.
Đam mê và dấn thân cho nghề báo
Có thể gọi chung Hồng Vinh là con người dấn thân và tận hiến, tận hiến cho lý tưởng - đúng với câu thơ Tố Hữu: “Dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”. Không cứ là Hồng Vinh, mà thực tế những năm bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả một thế hệ thanh niên đều “tận hiến” như vậy. Đất nước có giặc giã thì phẩm chất xả thân cứu nước là một giá trị văn hóa thiêng liêng, cao quý. Nhà thơ Thanh Thảo nói hộ tâm hồn hàng triệu người lính: Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/ (Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc? Những trang viết nóng hổi tươi rói cuộc sống chiến trường, những suy tư về lý tưởng, hoài bão của những thanh niên trí thức chứa trong biết bao trang nhật ký, tiêu biểu là Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Nhật ký Nguyễn Văn Thạc... Bạn đọc hôm nay chỉ được tiếp xúc những tâm tình cảm động trong vắt tình yêu đất nước từ số ít bản thảo còn giữ lại được. Trên thực tế, ở những ngày “cả nước lên đường” ấy có hàng vạn những tác giả như thế, có hàng triệu những trang nhật ký như vậy. Lấy tuổi trẻ mình, máu thịt mình, thân thể mình góp vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, chẳng phải là hành vi văn hóa cao nhất sao? Trong cuốn sách này, Hồng Vinh lại cho bạn đọc thấy sự “tận hiến” theo một góc nhìn của người làm báo đã vượt lên tất cả gian nan để viết cái chiều sâu của hành động vượt qua mưa bom bão đạn để thực hiện mục tiêu thiêng liêng: “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Ông tận hiến nên sống hết mình. Thời sinh viên, ngoài học giỏi, Hồng Vinh ngay năm thứ 3 (năm 1967) đã được kết nạp Đảng. Mà thời ấy, vào Đảng rất khó do cách nhìn có phần khe khắt, nên những năm đánh Mỹ, các sinh viên như Hồng Vinh được xếp vào đối tượng “tiểu tư sản”. Vì vậy, khi duyệt kết nạp Đảng phải qua nhiều cấp: Chi bộ, Liên chi bộ khoa Sử, rồi chuyển lên Thành ủy Hà Nội duyệt. Lúc đó, người ký quyết định kết nạp Hồng Vinh là ông Trần Vỹ, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội. Về công tác tại báo Nhân Dân chưa đầy 3 năm, ông đã được cử đi làm phóng viên chiến trường ở Trường Sơn và mặt trận Bình Trị Thiên khốc liệt, đã không ít lần vào sinh ra tử. Chiến trường đánh giặc luôn là “trường học” rèn luyện tinh thần, nghị lực, ý chí cách mạng. Từ đó Hồng Vinh trưởng thành hơn, ngày càng cứng cáp và mạnh mẽ trong cách diễn tả lẽ sống về chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Tất cả những điều ấy làm điểm tựa, làm nền tảng để sau này ông đi nghiên cứu và bảo vệ thành công luận án báo chí ở nước ngoài. Trở về nước, ông về làm quản lý, điều hành những cơ quan lớn, nhạy cảm và tinh tế (báo Nhân Dân, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Hội đồng lý luận, phê bình, văn học Trung ương) ông đều làm tốt. Câu chuyện ông kể trình Tổng Bí thư “măng xét” báo Nhân Dân mới thấy những người giữ trọng trách cao rất vất vả, khó nhọc khi triển khai công việc ở một tờ báo chính trị lớn nhất của nước ta. Lại cứ tưởng những người như ông thì ít khi gặp chuyện kiện tụng, ấy vậy mà có lần bị vu là “nhận hối lộ” để không cho các báo đăng bài về một vụ án phức tạp, nhạy cảm. Nhưng bản lĩnh vô tư và tôn trọng lẽ phải, “cây xanh” Hồng Vinh vẫn “vươn cành trổ hoa”. Những người như ông, tận hiến là mục tiêu và cũng là động lực trong cuộc sống cũng như trong công tác chỉ đạo báo chí.
Thấu hiểu lẽ đời, thấu cảm lẽ người
Có một nguyên lý chung của nghệ thuật là: Từ thấu hiểu sâu sắc đến thấu cảm tận cùng để đồng cảm, chỉ vậy mới tạo ra sức truyền cảm để cộng cảm cùng bạn đọc. Nghề báo đã góp phần quan trọng để Bác Hồ hoàn thành một cách cực kỳ xuất sắc vai trò người mở đường, dẫn lối và chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam. Trong Thư gửi lớp viết báo Huỳnh Thúc Kháng (5.1949), Người viết: “Muốn viết báo khá cần: 1. Gần gũi dân chúng, cứ ngồi trong phòng giấy mà viết thì không thể viết thiết thực...” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, 2002, tr.626). Đó là bài học để các nhà báo suốt đời rèn luyện vốn sống, phải nhập thân vào đời sống, phải ngụp lặn xuống tận đáy dòng sông cuộc đời mới có thể viết đúng được bản chất vấn đề.
Một lần về tát nước chống hạn ở Hà Đông, thấy một nhà báo ăn mặc chải chuốt, Bác Hồ nói: “Nhà báo của nông dân thì phải biết lao động như nông dân thì viết mới đúng được” (Hồ Chi Minh - Chân dung đời thường, NXB Lao động, 2005, tr.101). Ngày nay, thế giới cho rằng, bằng “cây bút, trang giấy”, nhà báo là người tiên phong, dũng cảm đưa ra những vấn đề gai góc mang tính thời đại và biết cách phân tích một cách sắc sảo, thuyết phục. Nhà báo Hồng Vinh xuất thân từ nông dân đã tận hiến làm theo hướng đó.
Đọc Suy ngẫm..., ta thấy Hồng Vinh là một trong những nhà báo bền bỉ học tập, rèn luyện theo phong cách báo chí Hồ Chí Minh, nhất là trong cách viết giản dị, dễ hiểu - như nguyên Tổng Biên tập Hoàng Tùng đã nhận xét. Cả một đời làm báo, ông thấm thía điều “muốn làm báo hay, mỗi nhà báo nên làm tốt quá trình ĐỌC - ĐI - NGHĨ - VIẾT. Những điều ấy không mới, so với lời Bác Hồ dạy, so với nhiều kinh điển về tích lũy vốn sống để viết. Nhưng với Hồng Vinh, quả đó là bài học nhập tâm. Sự nghiệp báo chí của ông chỉ có thể là kết quả của sự cần cù tích lũy từ thời chiến trường, thường xuyên học hỏi đồng nghiệp, nhất là khi có dịp được đi hầu hết các tỉnh, thành Việt Nam, rồi hai lần đi Trường Sơn, ba lần đi Trường Sa và tham quan, học hỏi kinh nghiệm qua 40 lần đi đến nhiều nước... Nhưng đó cũng chỉ là bề mặt, còn điều sâu xa bản chất hơn là tự mình rút ra bài học cho riêng mình, như dòng sông, phù sa luôn lắng lại để bồi đắp bãi bờ. Những bài viết của Hồng Vinh luôn có những hạt phù sa từ dòng đời lắng lại nên vừa giàu hàm lượng văn hóa, vừa sâu sắc chiêm nghiệm của sự từng trải, nên dễ chạm trái tim bạn đọc.
Như một hệ quả, hoặc có thể coi là sự tất yếu, những người như ông, rất khiêm tốn, chân thành tiếp thu từ người khác những điều rất nhỏ. Hồng Vinh kể lại với thái độ cảm phục cách nhà báo Hoàng Tùng duyệt bài, như sửa ba chữ “đề cập đến”, gạch bỏ chữ “đến” vì thừa (từ Hán Việt, “cập” nghĩa là “đến”); “tham gia vào”, bỏ chữ “vào”... Những điều ấy cho thấy, với báo chí, mỗi con chữ là “mã văn hóa” vừa truyền đạt thông tin, vừa truyền tải năng lực, nhân cách người viết...
Tâm huyết một tấm lòng; nồng nàn một tình yêu
Một nhà văn nói: Muốn “ướp” được người, mình phải “mặn” trước. Nhà triết học Đề-các nói: “Phải cắn vỡ xương mới hút được tủy”. Các vị ấy muốn nói tới sự nhập thân vào đời sống, kiên trì tìm ra cái lõi của sự kiện mới viết hay được. Ngày nay chúng ta hay gọi là “tâm huyết” - tiền đề cho sáng tạo. Tâm huyết tức sâu sắc yêu, nồng nàn nhớ, đau nỗi đau của người, vui nỗi vui của người. Phải có điều này Hồng Vinh mới viết được 13 tập với hàng trăm bài thơ “đứng được”. Qua Suy ngẫm... cho thấy ông phải đọc hàng chục bài báo về nhiều vụ án mà các báo đã đề cập để có chỉ đạo tuyên truyền hợp lý, hợp tình. Ngoài tư tưởng, bản lĩnh, mà cao hơn hết là tấm lòng biết đau đời, một tình yêu thương con người sâu nặng mới tạo nên sự vô tư, khách quan, thuyết phục... Nhà báo phải viết có “văn” mới thu phục bạn đọc. Sở dĩ Hồng Vinh kể về người anh trai liệt sĩ rất thật và cũng thật cảm động, ngoài chất tình sâu vốn có, còn nhờ chất văn, mà ông luôn chú ý trau chuốt, đắp bồi.
Xin được nhấn mạnh, Hồng Vinh nhờ trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Trường Sơn, làm nhiệm vụ phóng viên chiến trường nên ông được thử lửa để trưởng thành như hôm nay. Đất nước thống nhất, sau khi đi làm nghiên cứu sinh báo chí ở Liên Xô, ông lại về trăn trở đi vào thực tiễn lao động xây dựng đất nước... Tiểu sử và sự nghiệp cho thấy ông là một trong những ví dụ điển hình về mô hình con người văn hóa (văn nghệ sĩ, trí thức) của thời hội nhập toàn cầu hóa đầu thế kỷ XXI (theo quan niệm của “Triết học văn hóa” - The Cultural Philosophy): Như một cây xanh cường tráng cắm sâu những chùm rễ khỏe khoắn vào các mảnh đất: Văn hóa truyền thống, đời sống thực tế, hấp thụ văn minh nhân loại; rồi vươn cao cành lá vào bầu trời nhân văn quang hợp ánh sáng lý tưởng tiến bộ; nhờ vậy kết được những trái cây tác phẩm có hương vị tư tưởng riêng, đặc sắc.
Có thể nói, Hồng Vinh nhờ có vốn sống đời thực giàu có, được tiếp xúc nhiều nguồn văn hóa (trong nước, ngoài nước), được hấp thụ ánh sáng tư tưởng của Chủ nghĩa Mác, Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là được sống trong ánh sáng lý tưởng cách mạng trong sáng đến vô ngần thời đánh Mỹ, nên tác phẩm của ông, như cuốn sách này, đa dạng bút pháp, phong phú nội dung, sâu sắc chất triết lý, đậm đà chất đời thường, thiêng liêng chất lý tưởng, ấm áp, nhân hậu tình đời, tình người. Điều đó ta càng thấm thía “cây tài năng” chỉ mọc trên nền học vấn, trải nghiệm nhiều lĩnh vực để có vốn văn hóa dồi dào mới làm lên những trang viết có lửa. Chúc ông vẫn đam mê cây viết và giữ tâm hồn luôn “xanh” trong những trang viết truyền lửa tình yêu đất nước và con người thời kỷ nguyên vươn mình của dân tộc!