Siết chặt quản lý, nâng cao ý thức cộng đồng ngư dân
Thực hiện nghiêm Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư và các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh Ninh Bình đã ban hành hàng loạt văn bản chỉ đạo các sở, ngành, địa phương ven biển, yêu cầu người đứng đầu cấp ủy, chính quyền chịu trách nhiệm nếu để xảy ra vi phạm khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU). Ban Chỉ đạo chống khai thác IUU cấp tỉnh được thành lập theo Quyết định số 300/QĐ-UBND ngày 28/7/2025, đóng vai trò hạt nhân trong công tác điều phối, kiểm tra, xử lý vi phạm.
Ngay sau khi sáp nhập, tỉnh đã tiến hành rà soát số liệu hạn ngạch Giấy phép khai thác thủy sản vùng khơi là 630 giấy phép. Việc hoàn tất rà soát và xác định rõ số lượng hạn ngạch Giấy phép khai thác thủy sản vùng khơi có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý nhà nước. Đây là cơ sở pháp lý và thực tiễn để tỉnh tổ chức cấp phép minh bạch, kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai thác vùng khơi theo đúng quy định của Luật Thủy sản, đồng thời góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản, ngăn chặn tình trạng khai thác quá mức.
UBND tỉnh cũng đã giao Sở Nông nghiệp và Môi trường tổ chức rà soát, xây dựng phương án công bố hạn ngạch khai thác tại vùng ven bờ và vùng lộng theo đơn vị hành chính sau sáp nhập, đảm bảo phù hợp với thực tế sản xuất của ngư dân và định hướng phát triển thủy sản bền vững của địa phương. Công tác tuyên truyền, vận động được triển khai sâu rộng, chú trọng đến thay đổi nhận thức của ngư dân.
Cùng với đó, trong 7 tháng đầu năm 2025, tỉnh đã tổ chức 8 lớp tập huấn cho 1.227 cán bộ và ngư dân, phát tài liệu pháp luật và các quy định chống IUU tới từng chủ tàu, thuyền trưởng. 100% chủ tàu đã ký cam kết không vi phạm, đặc biệt là không khai thác trái phép ở vùng biển nước ngoài là yếu tố then chốt để khắc phục khuyến nghị của EC.
Công tác quản lý tàu cá được thực hiện nghiêm túc, toàn bộ 1.370 tàu có chiều dài từ 6m trở lên đã được đăng ký và cập nhật dữ liệu nghề cá quốc gia (Vnfishbase); 97,96% được cấp giấy phép khai thác; 99,33% tàu từ 15m trở lên lắp thiết bị giám sát hành trình (VMS). Các tàu không đủ điều kiện hoạt động đều được tập kết tại khu neo đậu tập trung, niêm yết danh sách tại cộng đồng và giám sát chặt chẽ để ngăn chặn ra khơi trái phép.
Việc kiểm tra, xử lý vi phạm được triển khai thường xuyên, nghiêm túc. Từ ngày 1/10/2023 đến ngày 31/7/2025, toàn tỉnh đã xử lý 462 vụ vi phạm, phạt tiền trên 8,12 tỷ đồng; riêng hành vi mất kết nối VMS trên 6 giờ bị xử lý mạnh, tạo sức răn đe rõ rệt, giúp giảm tỷ lệ tái vi phạm. Công tác giám sát sản lượng qua cảng cũng có bước tiến: trong 7 tháng đầu năm 2025, 3.023 lượt tàu được kiểm soát, 7.400 tấn thủy sản được giám sát. Hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử (eCDT) được áp dụng, cho phép kiểm soát chặt chẽ từ khi tàu cập cảng, bốc dỡ hàng đến khi tiêu thụ, tạo nền tảng minh bạch thông tin, một yêu cầu then chốt của EC.
Tàu khai thác thủy sản cập bến tại xã Rạng Đông. Ảnh: Ngọc Ánh
Khắc phục những tồn tại
Dù đã có những chuyển biến tích cực, công tác chống khai thác IUU ở Ninh Bình vẫn còn đối diện với những hạn chế mang tính cấu trúc và hạ tầng. Tình trạng tàu mất kết nối VMS trên 6 giờ khi hoạt động trên biển vẫn chưa được xử lý triệt để; việc giám sát sản lượng qua các bến cá tư nhân, bến truyền thống chưa đồng bộ; một số tàu chưa thực hiện cập cảng chỉ định, nhật ký khai thác và báo cáo khai thác vẫn còn thiếu, chưa phản ánh đầy đủ, chính xác thực tế hoạt động. Nguyên nhân sâu xa xuất phát từ việc toàn tỉnh hiện mới có hai cảng cá được công bố mở cảng, trong khi mạng lưới bến cá nhỏ lẻ, phân tán rải khắp vùng ven biển, khiến việc tập trung kiểm soát gặp nhiều trở ngại. Cùng với đó, lực lượng kiểm tra, kiểm soát còn mỏng, phương tiện kiểm ngư đã cũ, không hoạt động thường xuyên, làm giảm khả năng tuần tra trên biển và kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai thác vùng khơi.
Để khắc phục những tồn tại này và chuẩn bị tốt nhất cho đợt thanh tra lần thứ 5 của EC, Ninh Bình đã xây dựng kế hoạch hành động có tính hệ thống, kết hợp cả biện pháp quản lý hành chính lẫn ứng dụng công nghệ và siết chặt thực thi pháp luật. Trước hết, tỉnh tập trung rà soát, phân loại toàn bộ đội tàu, đặc biệt là những tàu không đủ điều kiện hoạt động để tập kết về các khu neo đậu tập trung, áp dụng quản lý nghiêm ngặt và hướng dẫn chủ tàu làm thủ tục giải bản đối với tàu “3 không”. Song song với đó, công tác tuần tra, giám sát trên biển được tăng cường, ưu tiên phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng biên phòng, kiểm ngư và chính quyền cơ sở để kịp thời phát hiện, xử lý vi phạm qua hệ thống giám sát hành trình VMS. Việc kiểm soát xuất, nhập bến được triển khai theo hướng “không để lọt tàu vi phạm ra khơi”, kiên quyết từ chối cấp phép rời bến cho tàu không bảo đảm đầy đủ giấy phép khai thác, đăng kiểm, thiết bị giám sát và biển số.
Một trong những điểm nhấn là việc xử lý nghiêm các trường hợp cố tình không duy trì kết nối VMS, đặc biệt đối với nhóm tàu có chiều dài lớn nhất từ 24m trở lên - đối tượng được EC đặc biệt chú ý. Đồng thời, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh áp dụng phần mềm eCDT để quản lý toàn bộ quy trình từ khi tàu ra, vào cảng, thu nhật ký và báo cáo khai thác, đến giám sát sản lượng bốc dỡ, bảo đảm dữ liệu được cập nhật vào hệ thống quản lý tàu cá quốc gia Vnfishbase. Đây là công cụ then chốt để minh bạch hóa chuỗi cung ứng, đáp ứng yêu cầu chứng nhận và xác nhận thủy sản khai thác theo chuẩn quốc tế. Những giải pháp này sẽ từng bước thiết lập một cơ chế quản lý nghề cá hiện đại, minh bạch, có trách nhiệm; giảm thiểu nguy cơ tái diễn vi phạm; nâng cao uy tín của thủy sản Ninh Bình và Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Khi “thẻ vàng” được gỡ bỏ, ngành thủy sản không chỉ khôi phục được quyền tiếp cận thị trường EU mà còn mở rộng cơ hội xuất khẩu chính ngạch sang các thị trường khó tính khác, đồng thời giúp ngư dân yên tâm bám biển, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ nguồn lợi thủy sản bền vững.