Trên địa bàn tỉnh, hiện nay đã xuất hiện những mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sạch với các phương thức sản xuất khác nhau. Mô hình ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất rau tại Công ty cổ phần Thương mại và Du lịch Thanh Xuân (Yên Mô), quy mô sản xuất 1.500 m2 với các giống rau: Xà lách, dưa chuột, đậu côve, cải bó xôi, cải canh, rau thơm các loại… có nguồn gốc giống từ Nhật Bản. Công nghệ sử dụng trong mô hình là: Nhà lưới, diện tích 1.500 m2...
Chi phí đầu tư cho công nghệ này bao gồm cả nhà lưới; hệ thống tưới phun mưa, nhỏ giọt; quy trình canh tác mới trung bình khoảng 300.000 đồng/m2. Ươm giống bằng khay xốp 84 lỗ. Xử lý đất trước khi trồng bằng vôi bột và chế phẩm Tricodema. Chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh theo quy trình của Lâm Đồng, có sự cải tiến cho phù hợp với điều kiện thời tiết của Ninh Bình.
Một số loại phân bón mới đưa vào sản xuất là: Phân Borax, CanxiBo, MgSO4, với cách thức bón là qua hệ thống tưới nhỏ giọt theo đúng quy trình và bón lót phân hữu cơ vi sinh, phân Power ant1. Phòng trừ sâu bệnh sử dụng các loại thuốc trừ sâu sinh học dòng Abamectin và Emamectin có hiệu lực cao, thời gian cách ly ngắn chỉ 3-5 ngày.
Nhờ ứng dụng đồng bộ các công nghệ nên các loại rau sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất cao: Xà lách soăn lợi nhuận ước đạt khoảng 100 triệu đồng/ha; đậu côve lùn lợi nhuận đạt khoảng 270 triệu đồng/ha; cà chua Nhật năng suất ước đạt khoảng 100 tấn/ha, trừ chi phí lợi nhuận khoảng 700-800 triệu đồng; dưa chuột năng suất 96 tấn/ha, trừ chi phí lợi nhuận ước đạt là 720 triệu đồng/ha.
Với mô hình này, nên mở rộng áp dụng cho các doanh nghiệp có điều kiện, có khả năng tiêu thụ được sản phẩm và áp dụng triệt để các công nghệ như tưới nhỏ giọt; ươm cây con trong khay bầu để tranh thủ được thời vụ, đảm bảo độ đồng đều…
Mô hình trồng hoa cúc tại xã Ninh Phúc (thành phố Ninh Bình), quy mô sản xuất 450m2, với các giống: cúc chùm trắng, cúc chùm vàng, cúc đơn kim cương vàng có nguồn gốc tại Đà Lạt - Lâm Đồng. Công nghệ mới được áp dụng là: Xử lý đất bằng vôi bột và chế phẩm Tricoderma; hệ thống tưới nhỏ giọt (với công nghệ này, người nông dân tiết kiệm được công lao động, lại kết hợp được giữa tưới nước và bón phân một cách đồng đều, không xảy ra hiện tượng cháy lá khi tưới bằng ô roa). Phân bón, thuốc BVTV thế hệ mới, như: MAP, MgS04, MPK...
Theo tính toán cứ 1.000m2 trồng hoa cúc, với giá bán từ 2.000 - 2.500 đồng/cành cho thấy tổng thu của các loại hoa tại mô hình khi áp dụng công nghệ mới đều cao hơn so với đối chứng và đạt khoảng 104 - 126 triệu đồng, quy ra 1ha sẽ đạt khoảng 1-1,25 tỷ đồng. Lợi nhuận đạt từ 68-90 triệu đồng/1.000m2, quy ra 1ha đạt khoảng 700-900 triệu đồng.
Nếu trừ chi phí lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt (khoảng 40 triệu đồng cho 1.000m2, 1ha mất khoảng 400 triệu đồng, nhưng sử dụng được nhiều vụ, khoảng 5 năm). Chênh lệch về lợi nhuận giữa việc áp dụng công nghệ mới với phương pháp thông thường đạt khoảng 20 triệu đồng/1.000m2, tức là khoảng 200 triệu đồng/ha.
Mô hình thử nghiệm ứng dụng công nghệ cao sản xuất rau tại xã Khánh Hồng (Yên Khánh), quy mô sản xuất 1,05ha với các giống rau: Súp lơ xanh Nhật (21 nghìn cây); cải bắp Green Nova (1.300 cây); su hào B40 (13 nghìn cây).
Tại đây cũng áp dụng công nghệ ươm giống bằng khay xốp; xử lý đất bằng vôi và chế phẩm Tricoderma; nhà lưới giản đơn, hệ thống tưới phun mưa; bón phân tăng hàm lượng phân hữu cơ vi sinh và phân tổng hợp NPK, giảm lượng đạm đơn, bón lót nhiều, giảm bón thúc; phòng trừ sâu bệnh bằng thuốc BVTV thế hệ mới, kết hợp sử dụng đèn, bẫy bả sinh học.
Ước tính 1ha súp lơ xanh trồng với mật độ 33 nghìn cây/ha, cải bắp 33 nghìn cây, su hào khoảng 35 nghìn cây. Sản xuất theo quy trình an toàn, có liên kết bao tiêu sản phẩm.
Theo tính toán, mô hình cho doanh thu khoảng 165 triệu đồng/ha trong 90 ngày; trừ chi phí lãi khoảng 90-100 triệu đồng/ha. So với phương thức người dân đang trồng và bán hiện nay, tổng thu chỉ đạt khoảng 90-100 triệu đồng, lợi nhuận khoảng 30-40 triệu đồng/ha.
Như vậy với chi phí cho 1ha đầu tư hệ thống tưới và nhà lưới giản đơn khoảng 400 triệu đồng/ha, thì cần làm 4 vụ rau sẽ thu hồi được vốn (khoảng 1 năm rưỡi, trong khi hệ thống này có thể sử dụng trong 5 năm).
Theo đồng chí Đinh Văn Khiêm, Phòng Tổng hợp (Sở Nông nghiệp & PTNT), đây là những mô hình rõ nét về ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sạch được ứng dụng vào sản xuất. Nhưng có thể thấy, những mô hình này có sự hỗ trợ của Nhà nước và được triển khai ở những đơn vị, địa phương có điều kiện, có tiềm lực về kinh tế.
Để có được những mô hình như vậy, nhất thiết phải có sự hợp tác, liên kết sản xuất hoặc tích tụ ruộng đất thành khu, vùng đủ lớn khi đưa công nghệ mới vào sản xuất.
Nguồn lực và vốn cũng là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng mô hình, bởi việc đầu tư đưa công nghệ mới vào sản xuất không hề nhỏ và rất cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp, các ngành từ chủ trương, định hướng đến các biện pháp, giải pháp cụ thể.
Trường Sinh