CHỦ ĐỘNG THAM MƯU GIÚP CẤP UỶ KIỆN TOÀN, SẮP XẾP BỘ MÁY, CÁN BỘ CẤP XÃ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
(Tham luận của đồng chí Đinh Việt Dũng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy)
... Trước hết, tôi xin bày tỏ sự nhất trí cao đối với các văn kiện của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 trình Đại hội. Các báo cáo được xây dựng công phu, khoa học, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất. Báo cáo Chính trị có tính hành động cao, đã đánh giá toàn diện kết quả đạt được, đồng thời chỉ rõ tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, xác định rõ quan điểm, mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, các khâu đột phá, giải pháp chủ yếu nhiệm kỳ 2025 - 2030 với tầm nhìn và không gian phát triển mới.
Để làm sáng tỏ và sâu sắc hơn khâu đột phá về công tác tổ chức và cán bộ trong nhiệm kỳ tới, thay mặt Ban Tổ chức Tỉnh ủy, tôi xin tham luận với nội dung “Chủ động tham mưu giúp cấp ủy kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, cán bộ cấp xã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới”.
Nhiệm kỳ qua, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, các Kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về sắp xếp tổ chức bộ máy và đơn vị hành chính; quán triệt tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm: Quyết liệt, khẩn trương, “Vừa chạy, vừa xếp hàng”, ngành Tổ chức xây dựng Đảng xác định rất rõ vai trò, trách nhiệm, chủ động, kịp thời tham mưu cấp ủy kiện toàn tổ chức bộ máy, sắp xếp đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị đồng bộ với việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, không tổ chức đơn vị hành chính cấp huyện, xây dựng cấp ủy, chính quyền địa phương hai cấp; trong đó quan tâm, chú trọng việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ cấp xã với mục tiêu: Gần dân, sát dân, hiểu dân và phục vụ Nhân dân...
Quán triệt sâu sắc chủ trương lớn của Đảng về cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy, đột phá về thể chế, với những vận hội mới, thời cơ mới; Ban Tổ chức Tỉnh ủy đã tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy triển khai thực hiện sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy - cán bộ trong toàn Đảng bộ với tinh thần khẩn trương, nghiêm túc, trách nhiệm, đảm bảo yêu cầu, tiến độ; bộ máy tổ chức mới 2 cấp đã vận hành và hoạt động thông suốt từ ngày 1/7/2025 với một số kết quả nổi bật, đó là:
Thứ nhất, đã tham mưu tiến hành đồng thời thực hiện sáp nhập, hợp nhất 3 tỉnh; kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện; sắp xếp giảm từ 398 đơn vị hành chính cấp xã còn 129 đơn vị, đồng thời thành lập 4 đảng bộ cấp trên cơ sở, 129 đảng bộ xã, phường với 1.187 tổ chức cơ sở Đảng và 240.041 đảng viên.
Thứ hai, thực hiện đồng bộ kiện toàn tổ chức bộ máy với sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm tính kế thừa và phát triển. Đã tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy:
- Chỉ định bố trí đủ các chức danh lãnh đạo chủ chốt: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND xã, phường.
- Quyết định chỉ định 3.434 Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, 1.349 Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy cấp xã đảm bảo đúng cơ cấu theo định hướng của Trung ương.
- Tiến hành rà soát, tham mưu phê duyệt Đề án sắp xếp, bố trí 8.843 cán bộ, công chức, viên chức công tác tại 129 xã, phường.
Qua đó, tổ chức bộ máy, cán bộ cấp xã sau sáp nhập đã nhanh chóng đi vào hoạt động ổn định, thông suốt, liên tục, không để công việc bị gián đoạn.
Ngay sau ngày hợp nhất tỉnh, xuất phát từ tình hình thực tiễn, Ban Tổ chức Tỉnh ủy tiếp tục tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo triển khai:
Sắp xếp, điều chuyển cán bộ, công chức, viên chức giữa khối Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức - chính trị xã hội và khối chính quyền;
Giữa các xã, phường với nhau, giữa cấp tỉnh và cấp xã để tăng cường đội ngũ cán bộ đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, từng bước nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Chủ động rà soát, kịp thời tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng năm 2025, trong đó chú trọng tổ chức các lớp bồi dưỡng tập huấn nhằm nâng cao năng lực, kỹ năng cho cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ chính quyền địa phương 2 cấp theo hình thức "cầm tay, chỉ việc". Dự kiến đến hết năm 2025 sẽ hoàn thành tổ chức 131 lớp, với 13.774 học viên.
Ba là, hướng dẫn và giải quyết kịp thời chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức dôi dư, bị ảnh hưởng trực tiếp do sắp xếp tổ chức bộ máy, đơn vị hành chính đảm bảo đúng quy định, hướng dẫn của Trung ương.
Đến nay, đã thực hiện giải quyết cho nghỉ hưu trước tuổi, thôi việc đối với 734 trường hợp cán bộ, công chức, viên chức (khối Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội). Tính chung, toàn tỉnh đã giải quyết đối với 3.399 cán bộ, công chức, viên chức và người lao động.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiện toàn tổ chức bộ máy, sắp xếp cán bộ, công chức, viên chức vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế như:
(1) Đội ngũ cán bộ, công chức ở một số địa phương, đơn vị chưa đủ về số lượng, chất lượng chưa đồng đều, cơ cấu chưa hợp lý.
(2) Việc bố trí cán bộ, công chức, viên chức còn tình trạng “thừa, thiếu cục bộ”, thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn sâu thuộc một số lĩnh vực như: tài chính, địa chính, đầu tư, xây dựng, quy hoạch, tư pháp - hộ tịch, công nghệ thông tin, nhất là đối với các xã khó khăn, xa trung tâm.
(3) Một bộ phận cán bộ, công chức còn lúng túng trong thực hiện nhiệm vụ.
Để thực hiện có hiệu quả khâu đột phá đã được xác định trong Báo cáo chính trị trình Đại hội, đó là: “Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh thu hút, trọng dụng nhân tài. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, tư duy mới, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới”, ngành Tổ chức xây dựng Đảng tỉnh Ninh Bình nhận thức sâu sắc vai trò, trách nhiệm là cơ quan tham mưu, đề xuất về công tác tổ chức cán bộ, nhất là công tác tham mưu, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Trong bối cảnh thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp, đơn vị hành chính cấp xã có địa bàn rộng, dân số đông, lĩnh vực quản lý, nhiệm vụ tăng thêm, trực tiếp giải quyết các vấn đề của cộng đồng dân cư, cung cấp các dịch vụ công thiết yếu phục vụ người dân đòi hỏi tổ chức bộ máy phải tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo phương châm "mới phải tốt hơn cũ, nói đi đôi với làm, đoàn kết thống nhất vì Nhân dân phục vụ", không để gián đoạn hoạt động công vụ, không bỏ sót nhiệm vụ... Đội ngũ cán bộ phải xứng tầm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tạo sự đồng thuận trong Nhân dân, củng cố niềm tin đối với Đảng.
Tại Đại hội hôm nay, Ban Tổ chức Tỉnh ủy đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của ngành, cụ thể là:
Thứ nhất, chủ động rà soát, tham mưu cấp ủy cụ thể hóa các quy định, kết luận của Trung ương về công tác tổ chức xây dựng Đảng, công tác cán bộ và quản lý cán bộ thành các quy chế, quy định, hướng dẫn phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh, để thực hiện đồng bộ, thống nhất trong toàn Đảng bộ,
Nghiên cứu tham mưu ban hành quy định về phân cấp quản lý cán bộ theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát nhằm đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cấp ủy đối với các nội dung, nhiệm vụ trong công tác cán bộ.
Phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thường xuyên chỉ đạo rà soát xây dựng, bổ sung, sửa đổi quy chế làm việc của cấp ủy; quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị cần bám sát quy định của Trung ương, của tỉnh phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, nhưng phải đảm bảo rõ quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác, tránh chồng chéo.
Thứ hai, tham mưu rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức trên cơ sở yêu cầu của vị trí việc làm để bố trí, sắp xếp, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, có trình độ chuyên môn phù hợp, phát huy được năng lực, sở trường, uy tín của cán bộ.
Lấy kết quả đầu ra và tinh thần phục vụ Nhân dân là thước đo để đánh giá cán bộ, nhất là đối với người đứng đầu; hoàn thành tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đảm bảo khách quan, công khai, dân chủ, chính xác (trong đó, nghiên cứu áp dụng Bộ chỉ số đánh giá KPI tại các cơ quan, địa phương, đơn vị); đồng thời tạo điều kiện, cơ hội phát triển đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ có năng lực nổi trội.
Căn cứ quy mô dân số, diện tích tự nhiên, yếu tố đặc thù và chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao để xác định biên chế cán bộ, công chức, đảm bảo cân đối, hài hòa, có cơ cấu hợp lý, gắn với tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị.
Thứ ba, tham mưu đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, cụ thể hóa quy định tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức; thực hiện đồng bộ các khâu: Từ tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, đánh giá... đến bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ.
Thực hiện liên thông giữa cấp tỉnh và cấp xã trong xây dựng đội ngũ cán bộ; có giải pháp điều động, luân chuyển, biệt phái để bổ sung nhân sự có chuyên môn tốt ở một số lĩnh vực, địa bàn đang thiếu và yếu.
Thứ tư, làm tốt công tác tư tưởng, thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ thuộc diện sắp xếp, điều động, luân chuyển; quan tâm, động viên kịp thời, tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ, công chức phát huy năng lực, sở trường, yên tâm công tác ở vị trí mới.
Tham mưu cơ chế, chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc trong khu vực công; có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ, công chức điều động, biệt phái về xã, phường; tạo động lực, môi trường làm việc thuận lợi để cán bộ, công chức phát huy trí tuệ, cống hiến lâu dài, tận tâm phục vụ Nhân dân.
Thực hiện có hiệu quả cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Thứ năm, tham mưu xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Thường xuyên cập nhật kiến thức, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý; kỹ năng chuyên môn sâu về: Khoa học công nghệ, ứng dụng chuyển đổi số..., bảo đảm cán bộ, công chức cấp xã đủ khả năng làm việc trong môi trường số, đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành ở cơ sở. Đánh giá, khen thưởng kịp thời đối với cán bộ, công chức có thành tích, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Với quyết tâm chính trị cao, với sự đồng lòng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân, cùng với truyền thống đoàn kết, trách nhiệm, ngành tổ chức xây dựng Đảng của tỉnh sẽ không ngừng nỗ lực, chủ động tham mưu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, cụ thể hóa thành việc làm cụ thể để thực hiện thành công đột phá về công tác cán bộ, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHỮNG GIẢI PHÁP TẠO BƯỚC ĐỘT PHÁ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI BỀN VỮNG, HÀI HOÀ CỦA TỈNH NINH BÌNH
(Tham luận của đồng chí Trần Song Tùng, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Uỷ ban nhân dân tỉnh)
... Trước hết, đối với Dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.
Ban Thường vụ Đảng ủy UBND tỉnh nhất trí cao với nội dung dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Văn kiện được chuẩn bị công phu, khoa học, toàn diện, các mục tiêu, định hướng phát triển phù hợp với tình hình thực tế; thể hiện rõ tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược, khẳng định khát vọng, ý chí quyết tâm xây dựng đất nước phát triển nhanh, bền vững.
Đại hội XIV được xác định là thời điểm tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh của đất nước, đặt ra những yêu cầu rất cao trong phát triển kinh tế - xã hội; Ban Thường vụ Đảng ủy UBND tỉnh xin tham gia góp ý đối với 6 vấn đề có tính đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội được nêu trong Dự thảo văn kiện như sau:
(1) Về hoàn thiện thể chế
Cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng bộ, hiện đại, hội nhập. Nâng cao năng lực hoạch định và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, để khơi thông, giải phóng và phát huy hiệu quả mọi nguồn lực. Trong đó trọng tâm là: Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, minh bạch hóa chính sách, thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền hợp lý gắn với kiểm soát quyền lực. Đồng thời tăng cường cơ chế đối thoại, tham vấn giữa Nhà nước - Doanh nghiệp - Nhân dân để tạo sự đồng thuận, khơi dậy sức mạnh toàn dân.
(2) Về phát triển hạ tầng
Hạ tầng phải đi trước một bước. Ngoài giao thông chiến lược, cần ưu tiên hạ tầng số, hạ tầng xanh, hạ tầng logistics; kết nối liên vùng hình thành các hành lang kinh tế. Nhà nước cần có cơ chế rõ ràng, minh bạch để khuyến khích hợp tác công - tư, huy động mạnh mẽ nguồn lực xã hội.
(3) Về nguồn nhân lực
Trong kỷ nguyên chuyển đổi số, nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết định. Giáo dục và Đào tạo cần gắn liền với thực tiễn, nhu cầu doanh nghiệp, chú trọng kỹ năng số, ngoại ngữ, kỷ luật và tác phong công nghiệp. Cần có cơ chế trọng dụng và bảo vệ nhân tài trong và ngoài nước.
4) Về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo
Phát triển đất nước nhanh, bền vững phải dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Đề nghị cần hình thành mạnh mẽ các trung tâm đổi mới sáng tạo, ươm mầm khởi nghiệp, Quỹ đầu tư mạo hiểm, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu và phát triển; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia và đẩy nhanh chuyển đổi số trong quản trị, sản xuất, dịch vụ công.
(5) Về phát triển vùng và đô thị
Cần có chính sách mạnh mẽ hơn nữa nhằm phát huy lợi thế từng vùng, xây dựng cơ chế liên kết vùng thực chất, nhất là vùng kinh tế trọng điểm và các hành lang ven biển. Đô thị cần phát triển theo hướng xanh, thông minh, bản sắc, gắn với nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; ưu tiên phát triển nhà ở xã hội.
(6) Về phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu
Phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Đề nghị cần đẩy mạnh chiến lược tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo, giảm phát thải khí nhà kính, hiện đại hóa hạ tầng điện. Có chiến lược sớm ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng mà Việt Nam là nước bị ảnh hưởng rất lớn; kiên quyết không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, đối với các văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh đã xác định rõ 7 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược, quyết tâm phấn đấu đến năm 2030 đưa tỉnh Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố xanh, thành phố di sản với bản sắc riêng có.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ và khâu đột phá đã đề ra, Ban Thường vụ Đảng ủy UBND tỉnh đề nghị cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai một số giải pháp trọng tâm sau:
Một là: Quan tâm quán triệt, triển khai có hiệu quả các Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của Trung ương, đặc biệt là các Nghị quyết đột phá, có tính chiến lược của Bộ Chính trị: Nghị quyết số 57 về thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; Nghị quyết số 59 về chủ động hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 66 về đổi mới toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật; Nghị quyết số 68 về phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 71 về đột phá phát triển Giáo dục và Đào tạo; Nghị quyết số 72 về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Hai là: Bám sát chỉ đạo của Trung ương, xây dựng bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp tinh gọn, hiện đại, số hóa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị, tạo niềm tin cho nhân dân và doanh nghiệp.
Ba là: Tổ chức lại không gian phát triển mới của tỉnh. Tỉnh Ninh Bình mới sau sáp nhập không chỉ là sự cộng gộp về diện tích, dân số mà quan trọng là cộng hưởng về tiềm năng, thế mạnh; trở thành trung tâm liên kết của vùng Nam đồng bằng Sông Hồng, kết nối chặt chẽ với Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh; hướng đến là một cực tăng trưởng mới của đất nước. Do vậy cần sớm rà soát, hoàn thiện Quy hoạch tỉnh Ninh Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Bốn là: Xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế; lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tăng trưởng bền vững, tăng trưởng xanh làm động lực chính.
Năm là: Đột phá về hạ tầng chiến lược
Đầu tư các tuyến cao tốc, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam và vành đai kinh tế ven biển, tạo mạng lưới giao thông đồng bộ, kết nối Hoa Lư - Phủ Lý - Nam Định, rút ngắn khoảng cách phát triển.
Phát triển khu kinh tế cảng biển Ninh Cơ, các khu công nghiệp thế hệ mới gắn với trung tâm logistic hiện đại.
Đẩy mạnh hạ tầng số, hạ tầng xanh, hướng tới xây dựng đô thị di sản thiên niên kỷ, đô thị thông minh.
Sáu là: Tập trung phát triển công nghiệp theo hướng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, số thu ngân sách lớn, sử dụng hiệu quả đất đai, gắn với bảo vệ môi trường. Thúc đẩy mô hình công nghiệp xanh, công nghệ cao gắn với phát triển kinh tế biển bền vững.
Phát triển du lịch cùng công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí làm cụm ngành kinh tế mũi nhọn và là động lực tăng trưởng cho các ngành kinh tế khác. Ưu tiên phát triển du lịch biển gắn với du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch nông thôn - làng nghề; xây dựng mô hình “Du lịch xanh - Du lịch di sản - Du lịch thông minh”.
Tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng hữu cơ, tuần hoàn, đa giá trị; ưu tiên phát triển các sản phẩm OCOP từ 4 sao trở lên đặc biệt là các sản phẩm đặc sản, đặc hữu, đặc trưng, kết tinh giá trị văn hóa cao phục vụ khách du lịch. Tiếp tục xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu gắn với gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa, lịch sử đặc sắc của đồng bằng Sông Hồng.
Bảy là: Phát triển bền vững và hài hòa
Gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, bảo tồn di sản, phát huy bản sắc văn hóa: Chiêm trũng - Ven biển - Cố đô.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt là khu vực ven biển.
Đảm bảo an sinh xã hội; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; thu hẹp khoảng cách giữa đô thị và nông thôn.
Ban Thường vụ Đảng ủy UBND tỉnh tin tưởng rằng, dưới lãnh đạo sát sao của Trung ương Đảng, cùng với quyết tâm chính trị cao, tinh thần đổi mới mạnh mẽ của Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân tỉnh Ninh Bình sẽ tạo những đột phá mới trong phát triển kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của tỉnh trong giai đoạn mới; góp phần cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới phát triển giàu mạnh, thịnh vượng.
GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHƯỜNG HOA LƯ TRỞ THÀNH ĐÔ THỊ DI SẢN GIÀU BẢN SẮC VĂN HOÁ LỊCH SỬ, HIỆN ĐẠI, VĂN MINH
(Tham luận của đồng chí Bùi Thành Đông, Tỉnh uỷ viên, Bí thư Đảng ủy phường Hoa Lư)
… Phường Hoa Lư được thành lập ngày 1/7/2025 trên cơ sở sáp nhập 11 phường, xã của thành phố Hoa Lư trước đây, với diện tích 54 km², dân số gần 150 nghìn người, Hoa Lư là một trong những đơn vị hành chính cấp xã có quy mô lớn của cả nước, Đảng bộ phường có 286 tổ chức đảng trực thuộc với trên 12.000 đảng viên.
Hoa Lư có vị trí chiến lược quan trọng là Kinh đô đầu tiên của nhà nước Đại Cồ Việt vào thế kỷ thứ X, sở hữu các giá trị văn hoá, lịch sử phong phú, đặc sắc, hoà quyện với cảnh quan thiên nhiên và hệ sinh thái đa dạng, trong đó nổi bật là quần thể danh thắng Tràng An - Di sản văn hóa và thiên nhiên Thế giới. Hiện nay, phường Hoa Lư là trung tâm chính trị - hành chính của tỉnh, có vị trí giao thông thuận lợi với đường bộ, đường sắt Bắc Nam chạy qua. Dân số đông, nguồn nhân lực dồi dào là điều kiện thuận lợi để tiếp cận, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống. Hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị từng bước được đầu tư, nâng cấp, tạo điều kiện để phường Hoa Lư phát triển toàn diện về kinh tế, văn hoá, xã hội.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, nhất là nhiệm kỳ 2020 - 2025, cấp uỷ, chính quyền và các tầng lớp Nhân dân đã phát huy tinh thần đoàn kết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đạt kết quả toàn diện: Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có nhiều đổi mới, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng được nâng lên; kinh tế tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 11,5%; thu ngân sách năm 2025 ước đạt 1.700 tỷ đồng, khách du lịch đạt 5 triệu lượt, doanh thu du lịch đạt trên 6.000 tỷ đồng; Cơ sở hạ tầng kỹ thuật được đầu tư nâng cấp, kết nối không gian tạo động lực phát triển. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, giáo dục, đào tạo luôn đứng tốp đầu toàn tỉnh.
Hoa Lư là nơi ken dày các di tích lịch sử, văn hoá, với 175 di tích, trong đó 42 di tích được xếp hạng cấp tỉnh và Quốc gia. Tháng 01/2025, thành phố Hoa Lư được công nhận là đô thị loại I, tạo nền tảng quan trọng để phát triển đô thị theo hướng văn minh, hiện đại.
Bước vào nhiệm kỳ mới, bên cạnh những thuận lợi, phường Hoa Lư cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức: Địa bàn rộng, dân số đông, chất lượng đội ngũ cán bộ chưa đồng đều; công tác quản lý đất đai, quy hoạch, xây dựng, môi trường còn hạn chế; hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ; cảnh quan đô thị thiếu những công trình kiến trúc điểm nhấn mang đặc trưng vùng đất Cố đô; khó khăn, bất cập giữa công tác quản lý, bảo tồn di sản văn hoá và phát triển không gian đô thị...
Nhằm thực hiện khát vọng xây dựng phường Hoa Lư trở thành đô thị di sản giàu bản sắc văn hoá lịch sử, văn minh, hiện đại, Đảng bộ phường xác định cần phải tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, Đầu tư phát triển hạ tầng đồng bộ, theo hướng hiện đại làm nền tảng cho xây dựng đô thị văn minh. Trước hết cần huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, các trục giao thông kết nối 3 đô thị của tỉnh là Hoa Lư, Phủ Lý, Nam Định, hạ tầng viễn thông, chuyển đổi số, dịch vụ du lịch, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí và kinh tế di sản. Khẩn trương thực hiện rà soát, bổ sung điều chỉnh quy hoạch mở rộng không gian đô thị khu vực 2 bên bờ sông Đáy theo hướng hiện đại, thông minh gắn với các trung tâm tài chính, thương mại, khu đô thị chất lượng cao, tạo động lực điểm nhấn cho đô thị Ninh Bình.
Tập trung đầu tư hoàn thiện khu Công viên văn hoá Tràng An, khu phố cổ Hoa Lư giai đoạn 2, Khu lâm viên núi Cánh Diều… Lựa chọn các khu vực ưu tiên để quy hoạch và thu hút đầu tư phát triển các sản phẩm công nghiệp văn hoá như phim trường, sân khấu thực cảnh, trung tâm triển lãm, bảo tàng ngoài trời... hình thành hệ sinh thái đồng bộ, sớm đưa Hoa Lư trở thành trung tâm công nghiệp văn hóa, giải trí, tổ chức sự kiện và du lịch của Quốc gia.
Thứ hai, tăng cường công tác quản lý bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử gắn với phát triển các sản phẩm du lịch có lợi thế như tâm linh, văn hoá lịch sử, du lịch trải nghiệm, du lịch sinh thái; Cần giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa quản lý bảo tồn và phát triển kinh tế, phát triển đô thị. Nghiên cứu có chính sách phù hợp hỗ trợ người dân tham giabảo tồn, cải tạo nhà ở theo kiến trúc cổ, mái ngói truyền thống; đảm bảo không gian xanh, cảnh quan môi trường trong khu vực di sản; Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng làm sống lại các nét đẹp văn hoá, loại hình nghệ thuật truyền thống, trò chơi dân gian, các câu chuyện văn hoá, các tích chuyện cổ... Giữ gìn, làm giàu bản sắc và giá trị văn hoá tốt đẹp, truyền thống của vùng đất Cố đô. Ban hành các quy định, chuẩn mực văn hoá, văn minh đô thị, văn hoá ứng xử nơi công cộng trong từng cơ quan, đơn vị, cộng đồng dân cư, xây dựng hình ảnh văn hoá con người vùng đất Hoa Lư “Hào hoa, thanh lịch, thân thiện, mến khách”.
Thứ ba, tập trung phát triển kinh tế đô thị, nhất là lĩnh vực thương mại, tài chính, dịch vụ, du lịch, các sản phẩm công nghiệp văn hoá, vui chơi, giải trí về đêm, các không gian nghệ thuật ngoài trời; Phát triển các sản phẩm du lịch độc đáo, mang đặc trưng, bản sắc riêng, để tạo sức lan toả hấp dẫn du khách; Nghiên cứu bổ sung làm mới, làm phong phú thêm các sản phẩm văn hoá, nghệ thuật để khai thác hiệu quả các tuyến du lịch trong Quần thể danh thắng Tràng An.
Tiếp tục đầu tư phát triển đa dạng hoá các sản phẩm du lịch văn hóa, tâm linh gắn với di sản, di tích lịch sử, lễ hội, sản phẩm du lịch trên các dòng sông cổ, đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu phố cổ Hoa Lư giai đoạn 2, tạo điểm nhấn đặc sắc, khác biệt của đô thị di sản văn hoá... khuyến khích đầu tư mở rộng các khu vui chơi giải trí, kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn cao cấp, khu phố ẩm thực, khu mua sắm tập trung, phố đi bộ gắn với phát triển kinh tế ban đêm tại khu vực trung tâm đô thị Hoa Lư.
Để xây dựng Hoa Lư trở thành là đô thị di sản giàu bản sắc văn hoá lịch sử, văn minh, hiện đại. Đảng bộ phường Hoa Lư trân trọng đề nghị Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh tiếp tục quan tâm chỉ đạo:
Một là, khẩn trương xây dựng quy hoạch chung của tỉnh, rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đô thị Ninh Bình, hoàn thiện các trục giao thông kết nối, mở rộng không gian phát triển đô thị, đáp ứng tiêu chí của thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó khu vực đô thị Hoa Lư đóng vai trò hạt nhân, là đô thị lõi, kết nối với các đô thị xung quanh. Tại đây cần quan tâm đầu tư kết hợp hài hoà giữa phát triển đô thị hiện đại, thông minh với kiến tạo, phục dựng đô thị cảnh quan, kiến trúc truyền thống gắn với di sản văn hoá của vùng đất Cố đô, quy hoạch khu vực 2 bên bờ sông Đáy trở thành khu đô thị sầm uất, năng động, hiện đại, thông minh để tạo động lực phát triển và mở rộng không gian đô thị.
Hai là, đề nghị tỉnh nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách đủ mạnh để sớm thu hút đầu tư nhất là các dự án trung tâm tài chính, thương mại, khu liên hợp vui chơi giải trí, thưởng thức nghệ thuật và ẩm thực về đêm, xây dựng khu đô thị hiện đại với kiến trúc hài hoà, đô thị xanh để đáp ứng nhu cầu của du khách... Hiện nay trên địa bàn phường Hoa Lư vẫn còn một số cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, đề nghị tỉnh sớm có phương án di dời các cơ sở trên ra khỏi khu vực đô thị.
Ba là, đề nghị tỉnh quan tâm ưu tiên nguồn lực cho Hoa Lư đầu tư xây dựng, phục dựng các công trình văn hóa và các kiến trúc cảnh quan tạo điểm nhấn đô thị, khẩn trương hoàn thành các công trình: Công viên Văn hóa Tràng An, cải tạo cảnh quan 2 bên bờ sông Vân, khu lâm viên núi Cánh Diều, Công viên Thuý Sơn, các điểm vui chơi giải trí, mua sắm, thưởng thức nghệ thuật truyền thống, phố đi bộ, phát triển kinh tế ban đêm... để thu hút khách du lịch đến Ninh Bình. Quan tâm hỗ trợ phường Hoa Lư triển khai các dự án hạ tầng kỹ thuật, các tuyến giao thông kết nối, hệ thống tiêu úng, chống ngập đô thị và cải tạo, chỉnh trang các tuyến phố, xanh hoá khu vực trung tâm đô thị.
Với tinh thần “Đoàn kết Trách nhiệm - Kỷ cương - Đột phá - Phát triển”, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân phường Hoa Lư quyết tâm chung sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, góp phần hiện thực hoá mục tiêu đến năm 2030 đưa Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh của dân tộc.
ĐẢNG UỶ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH LÃNH ĐẠO HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH TRONG VIỆC BAN HÀNH CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH
(Tham luận của đồng chí Lê Xuân Huy, Tỉnh uỷ viên, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh)
… Nhiệm kỳ 2020-2025, nhận thức sâu sắc về đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với hoạt động của HĐND tỉnh, Đảng đoàn HĐND tỉnh, nay là Đảng ủy HĐND tỉnh (trước và sau sắp xếp) đã luôn bám sát sự chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, không ngừng phát huy vai trò là hạt nhân lãnh đạo, đổi mới tư duy, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách của địa phương, góp phần thể chế hóa kịp thời đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền các cấp, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị.
Từ ngày 1/7/2025, thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính theo Nghị quyết của Quốc hội, Đảng bộ HĐND tỉnh Ninh Bình được thành lập, tiếp tục phát huy, khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với HĐND tỉnh, các cơ quan của HĐND tỉnh, kịp thời triển khai các nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng vận hành tổ chức bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp. Việc xây dựng nghị quyết được Đảng ủy HĐND tỉnh chỉ đạo triển khai bài bản, chặt chẽ, cẩn trọng, phù hợp với thực tiễn địa phương và đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật hiện hành. Đảng ủy, Thường trực HĐND tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan của HĐND tỉnh với vai trò là “người gác cổng” thực hiện tốt chức năng thẩm tra, đánh giá toàn diện tính hợp Hiến, hợp pháp và tác động của chính sách, kiến nghị chỉnh lý, hoàn thiện trước khi trình HĐND tỉnh xem xét, thông qua. Tại các kỳ họp, HĐND tỉnh đã phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, dân chủ, trí tuệ tập thể, nghiên cứu, xem xét, thống nhất quyết nghị chính sách.
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, HĐND tỉnh (trước và sau sắp xếp) đã ban hành 1.739 nghị quyết toàn diện trên tất cả các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, quân sự địa phương. Các cơ chế, chính sách ban hành đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tháo gỡ điểm nghẽn, khơi thông nguồn lực, tạo đà cho phát triển, đảm bảo an ninh quốc phòng, an sinh xã hội, làm thay đổi diện mạo, tạo không gian mới cho sự phát triển của tỉnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác chỉ đạo HĐND tỉnh ban hành cơ chế, chính sách còn một số khó khăn, hạn chế như: Công tác chỉ đạo thực hiện theo dõi, giám sát việc tổ chức thực hiện và đánh giá tác động sau ban hành chưa được thực hiện thường xuyên, bài bản. Việc tham mưu xây dựng một số nghị quyết còn chậm so với yêu cầu thực tiễn. Cơ chế, chính sách mang tính đột phá, bứt tốc phát triển còn ít.
Bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên vươn mình phát triển bứt phá, giàu mạnh, hùng cường; yêu cầu đặt ra đối với công tác xây dựng chính sách, pháp luật ngày càng cao hơn, sâu sắc hơn, là một nhiệm vụ then chốt, giữ vai trò nền tảng, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho sự phát triển toàn diện. Do đó, càng cần đổi mới toàn diện chính sách để xây dựng một hệ thể chế thông minh, linh hoạt, thúc đẩy phát triển. Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác ban hành cơ chế, chính sách, Đảng uỷ HĐND tỉnh đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, bám sát các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I, Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng, chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt Đảng ta ban hành các quyết sách chính trị lớn như những động lực phát triển, gồm: Nghị quyết 57, Nghị quyết 59, Nghị quyết 66, Nghị quyết 68, Nghị quyết 71, Nghị quyết 72 về các lĩnh vực: khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; hội nhập quốc tế; đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật; phát triển kinh tế tư nhân; phát triển giáo dục đào tạo; bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Coi đây là “kim chỉ nam” để đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động xây dựng cơ chế, chính sách của HĐND tỉnh theo hướng chủ động, thực chất, hiệu quả và sát với thực tiễn.
Thứ hai, chỉ đạo HĐND tỉnh và các cơ quan thuộc HĐND chủ động, kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa các Nghị quyết, chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước thành cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương. Ưu tiên thực hiện các khâu đột phá của tỉnh về: phát triển kinh tế, công nghiệp; dịch vụ, du lịch chất lượng cao và đô thị xanh, thông minh gắn với bảo tồn di sản. Việc xây dựng cơ chế, chính sách cần được đặt trong tầm nhìn dài hạn, đồng thời bảo đảm tính linh hoạt, khả thi, thông thoáng, phù hợp, góp phần thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của tỉnh.
Thứ ba, chỉ đạo nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành Nghị quyết của HĐND tỉnh, chủ động phối hợp, đồng hành cùng chính quyền tỉnh, các cấp, các ngành của tỉnh, tăng cường sự tham gia của các chuyên gia, tham vấn cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong quá trình xây dựng nghị quyết. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác theo dõi, đánh giá, điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Thứ tư, chỉ đạo nâng cao chất lượng đại biểu HĐND tỉnh, quan tâm công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực xây dựng chính sách cho đại biểu HĐND, đặc biệt là đại biểu HĐND chuyên trách và đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác.
TĂNG CƯỜNG, CỦNG CỐ VỮNG CHẮC KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN; CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG, CỦNG CỐ VỮNG CHẮC KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
(Tham luận của đồng chí Nguyễn Hoàng Hà, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh)
... Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Ðoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Điều đó đã được khẳng định trong suốt quá trình phát triển nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn về xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), qua các kỳ Đại hội của Đảng và Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII).
Dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng tiếp tục kế thừa và nhấn mạnh: “Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng của khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích; đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội và mỗi người dân trong tiếp cận cơ hội và thụ hưởng thành quả phát triển; nêu cao ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, cộng đồng với quốc gia - dân tộc”. Đó cũng là một trong những bài học kinh nghiệm mang tầm lý luận qua 40 năm đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.
Từ thực tiễn của tỉnh Ninh Bình, nhất là trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự điều hành của UBND tỉnh, sự vào cuộc của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn tỉnh không ngừng củng cố và phát triển, phong trào đoàn kết trong Nhân dân ngày càng lan tỏa mạnh mẽ, nổi bật là:
Các phong trào, cuộc vận động lớn được triển khai sâu rộng, thiết thực, hiệu quả, hướng mạnh về cơ sở. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát” cho hộ nghèo, Quỹ Phòng, chống Covid-19, Quỹ Ủng hộ bão lụt, Quỹ Cứu trợ tỉnh... đã tập hợp, thu hút đông đảo đoàn viên, hội viên, chức sắc, chức việc các tôn giáo, doanh nghiệp và các tầng lớp Nhân dân đồng tình hưởng ứng tham gia.
Giai đoạn 2021 - 2025, Nhân dân trong tỉnh đã hiến hơn 1,5 triệu m² đất; di dời, phá dỡ khoảng 650 nhà ở trị giá 57 tỷ đồng; hơn 2.400 công trình tường rào, cổng nhà, sân… trị giá 90 tỷ đồng; góp 640 tỷ đồng và 590.000 ngày công lao động trị giá 202 tỷ đồng; xây dựng lại công trình công cộng, hỗ trợ xây mới và sửa chữa 1.597 nhà Đại đoàn kết trị giá 107 tỷ đồng; ủng hộ Quỹ Phòng, chống Covid-19 trên 50,4 tỷ đồng; ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do cơn bão số 3 (Yagi) với số tiền 62,8 tỷ đồng. Đây chính là nguồn sức mạnh to lớn, chung sức với các cấp ủy đảng, chính quyền, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.
Công tác vận động đồng bào có đạo, dân tộc thiểu số, các tầng lớp Nhân dân ngày càng được chú trọng. Với gần trên 20% đồng bào có đạo (Công giáo và Phật giáo) và khoảng gần khoảng 30 nghìn đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn tỉnh, Ủy ban MTTQ các cấp trong tỉnh thường xuyên giữ mối liên hệ, phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong tỉnh gặp gỡ, thăm hỏi chúc mừng các tổ chức tôn giáo, các vị chức sắc, chức việc, đồng bào có đạo, người có uy tín trong cộng đồng. Hằng năm, việc tổ chức gặp mặt giao lưu giữa cấp ủy, chính quyền và các tổ chức tôn giáo đã trở thành nền nếp, là đặc trưng riêng có của tỉnh...
Do đó, góp phần quan trọng trong tuyên truyền, vận động, tập hợp đồng bào dân tộc, tôn giáo thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo; không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo, đoàn kết tôn giáo, tạo sự đồng thuận xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội đã đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò trung tâm hiệp thương, phối hợp, thống nhất hành động với các tổ chức và cá nhân thành viên; hướng về cơ sở. Chú trọng nâng cao chất lượng giám sát và phản biện xã hội, nhất là giám sát theo Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 02/02/1018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá XII) đối với chương trình hành động của đại biểu dân cử; việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên; phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tham mưu phối hợp với cấp ủy, chính quyền tổ chức các cuộc đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền với MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp Nhân dân theo Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (khoá XI).
Phát huy vai trò MTTQ là "cầu nối" tin cậy giữa Nhân dân với các cấp ủy Đảng và chính quyền cơ sở; thực hiện dân chủ ở cơ sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; hướng dẫn 129 Ban Thanh tra nhân dân xã, phường trong tỉnh giám sát 4.338 vụ việc, các Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng giám sát 3.988 công trình, dự án; đồng thời tổng hợp ý kiến hợp pháp, chính đáng của cử tri và Nhân dân kiến nghị chính quyền các cấp xem xét, giải quyết. Nhờ đó, đã phát huy đầy đủ hơn quyền làm chủ của Nhân dân, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; dân chủ cơ sở, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện được đẩy mạnh, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, chính quyền.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số khó khăn:
Một số nội dung trong công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân chưa thu hút được đông đảo Nhân dân. Kết quả một số cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước chưa rõ nét.
Hoạt động giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền lợi Nhân dân của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội có việc còn lúng túng, chất lượng chưa cao, nhất là ở cơ sở.
Ở một số nơi, việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân chưa kịp thời. Một bộ phận Nhân dân còn khó khăn về kinh tế, dễ bị tác động bởi mặt trái của kinh tế thị trường. Các thế lực thù địch vẫn tìm cách lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trước yêu cầu của đất nước cũng như của tỉnh trong giai đoạn mới, đặc biệt đối với tỉnh Ninh Bình sau sáp nhập, không gian dư địa phát triển lớn hơn, cơ hội mở rộng hơn nhưng thách thức và áp lực cũng lớn hơn, đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực: trí tuệ, nhân lực, tài lực, vật lực từ các giai tầng xã hội, trong và ngoài nước. Vì vậy, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn bảo đảm chắc chắn cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước cũng như của tỉnh.
Để tiếp tục tăng cường, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân trên địa bàn tỉnh, chúng tôi xin đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác đại đoàn kết toàn dân tộc; đưa nội dung này trở thành nhiệm vụ thường xuyên trong nghị quyết, chương trình hành động của các cấp, các ngành. Nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, xây dựng nền công vụ phục vụ Nhân dân.
2. Đổi mới, nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, chuyển đổi số, bảo vệ môi trường; đặc biệt là hướng đến mục tiêu xây dựng tỉnh Ninh Bình đến năm 2030 phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương; kịp thời phát hiện, động viên, nhân rộng điển hình tiên tiến, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.
3. Phát huy vai trò nòng cốt chính trị, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội theo mô hình tổ chức mới; hướng về cơ sở, chăm lo thiết thực quyền lợi, đời sống của đoàn viên, hội viên và Nhân dân. Thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, kịp thời giải quyết những kiến nghị, bức xúc, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân; tăng cường giám sát việc thực hiện chính sách, đối thoại trực tiếp giữa chính quyền và Nhân dân.
4. Quan tâm, đẩy mạnh công tác an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc thù. Phát huy sức mạnh văn hóa, tinh thần, giá trị truyền thống của quê hương, đồng thời hình thành bản lĩnh, nhân cách con người mới, đóng góp vào sự phát triển của tỉnh.
5. Tôn trọng, phát huy sự đa dạng trong cộng đồng; quan tâm đến đồng bào có đạo, dân tộc thiểu số; phát huy vai trò người có uy tín, chức sắc, chức việc tôn giáo, già làng, trưởng bản, trí thức, doanh nhân; xây dựng mối quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa các tầng lớp, các tôn giáo, các thế hệ.
6. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, vận động, làm tốt định hướng dư luận xã hội để cho nhân dân nhận thức rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm trong khối đại đoàn kết, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; kịp thời đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; nêu gương người tốt, việc tốt.
XÂY DỰNG, CỦNG CỐ NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, THẾ TRẬN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, THẾ TRẬN AN NINH NHÂN DÂN GẮN VỚI XÂY DỰNG THẾ TRẬN LÒNG DÂN, XÂY DỰNG KHU VỰC PHÒNG THỦ VỮNG CHẮC
(Tham luận của đồng chí Đại tá Trịnh Hồng Phong, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh)
... Lực lượng vũ trang (LLVT) tỉnh Ninh Bình được thành lập trên cơ sở sáp nhập 3 tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Kế thừa và phát huy truyền thống gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020 - 2025, trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, LLVT tỉnh đã thực hiện toàn diện nhiệm vụ công tác quân sự, quốc phòng địa phương, xây dựng và củng cố khu vực phòng thủ tỉnh, tiềm lực quốc phòng ngày càng vững mạnh; lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước, với cấp ủy, chính quyền địa phương tiếp tục được củng cố và giữ vững; chất lượng huấn luyện và khả năng sẵn sàng chiến đấu của LLVT tỉnh được nâng cao, bảo vệ vững chắc chủ quyền, biên giới biển.
LLVT tỉnh được xây dựng “tinh - gọn - mạnh” theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp; lực lượng dân quân vững mạnh, rộng khắp; lực lượng tự vệ ở các khu công nghiệp nhất là trong các doanh nghiệp tư nhân, có yếu tố nước ngoài được mở rộng; lực lượng DBĐV được xây dựng hùng hậu, là lực lượng dự bị chiến lược sẵn sàng huy động khi đất nước có tình huống. Thực hiện tốt công tác tuyển sinh quân sự; hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ, bàn giao hơn 26.000 công dân cho các đơn vị trong toàn quân.
Công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh đạt được nhiều kết quả quan trọng, chú trọng tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng cho các chức sắc tôn giáo, trưởng họ tộc, các nhà hoạt động văn hóa, xã hội, khoa học, nghệ thuật… góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và thế trận lòng dân vững chắc.
Lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, diễn tập; tổ chức gần 700 cuộc diễn tập các cấp, trong đó có nhiều cuộc diễn tập quy mô lớn như: Diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh, diễn tập tác chiến phòng không, diễn tập phòng thủ dân sự, diễn tập phòng chống dịch Covid-19... Thông qua đó, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của cấp uỷ, chính quyền và khả năng phối hợp hiệp đồng giữa các lực lượng xử trí các tình huống trong tác chiến và phòng thủ dân sự.
Thực hiện hiệu quả công tác chính sách hậu phương Quân đội và phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”; tích cực hưởng ứng phong trào thi đua “Dân vận khéo”, “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”; huy động hơn 20.000 lượt CB, CS thường trực, DQTV tham gia phòng, chống dịch bệnh Covid-19, quản lý 119 khu cách ly, 03 bệnh viện dã chiến với gần 40.000 công dân; huy động hơn 30.000 lượt cán bộ, chiến sĩ hơn 1.000 phương tiện tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả 21 cơn bão đổ bộ vào địa bàn, 421 vụ cháy rừng, tham gia cứu hộ cứu nạn 210 vụ, 52 người dân đuối nước, 116 phương tiện bị tai nạn, hư hỏng, góp phần ổn định đời sống Nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nền tảng xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân vững mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn những tồn tại, hạn chế, đó là:
Nhận thức của một số cán bộ, đảng viên và Nhân dân về sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân chưa đầy đủ. Một số cấp ủy, chính quyền địa phương còn lúng túng trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh. Cơ sở, vật chất, thao trường, trang bị kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Những năm tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp theo hướng đa cực, đa tầng và phân tuyến mạnh; hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước nhiều thách thức mới; chủ nghĩa bảo hộ, áp đặt chính sách thuế quan, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt hơn. Xung đột, chiến tranh diễn ra ở nhiều khu vực với hình thái và phương thức mới; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo ở biển Đông tiềm ẩn nguy cơ xung đột.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo, internet phát triển mạnh, tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực, trong đó có quốc phòng, an ninh. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong kỷ nguyên phát triển mới đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi cao hơn. Để lãnh đạo thực hiện toàn diện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương, phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng LLVT địa phương vững mạnh, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh Nhân dân, biên phòng toàn dân và xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh vững chắc, thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, tôi xin đề xuất một số chủ trương, biện pháp sau:
Trước hết, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, quân sự địa phương gắn với thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương về chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, xây dựng LLVT tỉnh vững mạnh toàn diện, “mẫu mực tiêu biểu”, có chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, chú trọng nâng cao trình độ, khả năng cơ động, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống
Ba là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục quốc phòng an ninh cho toàn dân, nhất là cán bộ chủ chốt, thế hệ trẻ, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và hệ thống chính trị đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc.
Bốn là, tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả các đề án, quy hoạch, kế hoạch về công tác quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh vững mạnh toàn diện cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, phù hợp với yêu cầu tác chiến, nhiệm vụ bảo vệ địa bàn và khả năng kinh tế của địa phương, gắn kết chặt chẽ với thế trận tác chiến phòng thủ của Quân khu 3, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Năm là, thực hiện tốt chính sách hậu phương Quân đội và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”; giải quyết chế độ, chính sách đối với người tham gia kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế. Thực hiện có hiệu quả công tác dân vận, tuyên truyền đặc biệt, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.
Với tinh thần trách nhiệm cao, tôi tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2025-2030, công tác quốc phòng, quân sự địa phương sẽ có bước phát triển mới, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo cơ sở tiền đề quan trọng để xây dựng tỉnh Ninh Bình giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc.
TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BẢO ĐẢM AN NINH TRẬT TỰ VÀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN THỰC SỰ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU TRONG TÌNH HÌNH MỚI, GÓP PHẦN THỰC HIỆN HIỆU QUẢ MỤC TIÊU ĐẠI HỘI XIV CỦA ĐẢNG VÀ ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LẦN THỨ I, NHIỆM KỲ 2025 - 2030
(Tham luận của đồng chí Thiếu tướng Nguyễn Hữu Mạnh, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh Ninh Bình)
... Đảng bộ Công an tỉnh Ninh Bình (mới) được thành lập từ tháng 7/2025 trên cơ sở hợp nhất, sắp xếp Đảng bộ Công an tỉnh Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình (trước đây), có 30 tổ chức đảng trực thuộc. Trong nhiệm kỳ vừa qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, toàn diện của Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an, của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh; sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, chính quyền các cấp; sự ủng hộ, tin yêu, giúp đỡ của Nhân dân, Đảng bộ và lực lượng Công an tỉnh Ninh Bình đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện trên các mặt công tác, nổi bật trên 5 mặt công tác trọng tâm sau:
(1) Đã chủ động tham mưu với cấp ủy, chính quyền triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về công tác bảo đảm ANTT và xây dựng lực lượng CAND. Nổi bật là: Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia; Kết luận số 13-KL/TW ngày 16/8/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; Kết luận số 15-KL/TW ngày 30/9/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm ANTT trong tình hình mới…, qua đó đã huy động cả hệ thống chính trị trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm ANTT trên địa bàn.
(2) An ninh chính trị được giữ vững, nhiều vụ việc tiềm ẩn nguy cơ phức tạp đã được giải quyết ổn định, dứt điểm ngay từ cơ sở, không để xảy ra bị động, bất ngờ (điển hình như vụ việc người dân “đình đò” tại Khu du lịch Tam Cốc; vụ việc khiếu kiện liên quan đến giải phóng mặt bằng khu vực Cồn Xanh, xã Rạng Đông; việc bắt, xử lý nghiêm các đối tượng lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để xâm phạm ANTT...).
(3) Trật tự, an toàn xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần kiềm chế sự gia tăng của tội phạm; hiệu lực quản lý nhà nước về ANTT tiếp tục được nâng cao, gắn chặt với công tác cải cách hành chính, phục vụ Nhân dân ngày càng tốt hơn. Trong đó, lực lượng Công an đã gương mẫu đi đầu, phát huy vai trò nòng cốt, thường trực trong triển khai thực hiện Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Đề án 06 của Chính phủ, làm nền tảng cho công cuộc đổi mới toàn diện trong tổ chức bộ máy, quản lý dân cư và phát triển xã hội số.
(4) Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có nhiều đổi mới, đi vào chiều sâu, gắn kết chặt với các phong trào thi đua yêu nước, nhất là phong trào xây dựng nông thôn mới, qua đó huy động sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong công tác bảo đảm ANTT ngay từ cơ sở; triển khai lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, góp phần củng cố thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc.
(5) Công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng được đặc biệt chú trọng, có nhiều chuyển biến tích cực trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Chủ động tham mưu triển khai thực hiện bài bản, khoa học Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị; lực lượng Công an tỉnh tiếp tục gương mẫu, đi đầu, triển khai nghiêm túc, hiệu quả chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy gắn với bố trí, sắp xếp cán bộ theo phương châm “vì việc chọn người, vì người bố trí việc”, bảo đảm thông suốt, hiệu quả, không bị gián đoạn, ngắt quãng (nổi bật là trong tiếp nhận và thực hiện tốt 04 chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước từ các sở, ngành về Công an tỉnh và tổ chức mô hình Công an địa phương hai cấp, không tổ chức Công an cấp huyện từ ngày 1/3/2025).
Những kết quả, thành tích đạt được đã phục vụ đắc lực nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà, góp phần thực hiện hiệu quả nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp đã đề ra.
Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, các nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia ngày càng đa dạng, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu; thời cơ thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen gay gắt. Trong nước, Đảng và Nhà nước ban hành và chỉ đạo thực hiện quyết liệt các chủ trương, chính sách chiến lược để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đặc biệt, việc triển khai mô hình tổ chức bộ máy gắn với đơn vị hành chính mới là bước đột phá quan trọng, song đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới cao hơn, nhiệm vụ nặng nề hơn, tính chất phức tạp và khó khăn hơn.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm ANTT và xây dựng lực lượng CAND đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 đề ra, Đảng ủy Công an tỉnh sẽ tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết, văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Công an, Tỉnh ủy, UBND tỉnh; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và Nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm ANTT, xây dựng lực lượng CAND thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Hai là, nâng cao năng lực nắm, phân tích, đánh giá, dự báo sát, đúng tình hình, chủ động tham mưu, đề xuất những chủ trương, giải pháp chỉ đạo giải quyết từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở những vấn đề liên quan đến an ninh trật tự, không để “bị động”, “bất ngờ” trong mọi tình huống, phục vụ hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Ba là, triển khai đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, đấu tranh quyết liệt với các loại tội phạm, vi phạm pháp luật, tạo chuyển biến tích cực về trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục gương mẫu, đi đầu, tham mưu triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả Đề án 06 của Chính phủ, Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị; nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong mọi mặt công tác Công an; khai thác hiệu quả Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành; đồng thời đẩy mạnh cải cách hành chính, tận tâm, tận lực phục vụ Nhân dân với phương châm “lấy sự hài lòng của Nhân dân làm thước đo cải cách hành chính”.
Bốn là, đổi mới, nâng cao chất lượng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong thực hiện phong trào; tăng cường công tác phối hợp giữa các lực lượng, các ban, ngành, đoàn thể, cấp ủy, chính quyền các cấp, tạo thế trận an ninh Nhân dân vững chắc, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Năm là, tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng Công an thật sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng lực lượng Công an tỉnh tinh nhuệ, hiện đại. Chỉ đạo thực hiện tốt Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 23/7/2025 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng công tác cán bộ, bảo đảm đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ; đồng thời quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, chế độ, chính sách cho cán bộ, chiến sĩ và thân nhân, xây dựng hậu phương CAND vững chắc, để mỗi cán bộ, chiến sĩ thực sự an tâm, toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
Nhìn lại chặng đường vẻ vang 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng CAND, chúng tôi càng thêm tự hào và tin tưởng vững chắc rằng: Dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, lực lượng Công an sẽ luôn là “thanh bảo kiếm” sắc bén, là “lá chắn thép” vững chắc, là “điểm tựa bình yên” của Tổ quốc, Đảng và Nhân dân; luôn xứng đáng với niềm tin yêu, sự kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Phát huy truyền thống tốt đẹp và kết quả đã đạt được, với khí thế mới, quyết tâm mới, Đảng bộ và lực lượng Công an Ninh Bình sẽ tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng, đoàn kết, thống nhất, vượt qua khó khăn, thử thách; tiếp tục chung sức cùng toàn Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân tỉnh nhà, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 đề ra, xây dựng quê hương Ninh Bình ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, cùng cả nước vững bước trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững.