Chúng tôi đã gặp gỡ, trò chuyện với một số cựu chiến binh (CCB) tỉnh Ninh Bình từng tham gia “Đoàn tàu không số”. Dù thời gian đã in hằn dấu vết lên mái tóc và dáng hình, nhưng ký ức về những năm tháng làm nhiệm vụ trên biển vẫn vẹn nguyên, sống động trong tâm trí họ. Dòng hồi ức của các CCB như thước phim quay chậm đưa chúng tôi trở về với những tháng ngày không thể nào quên trên “Đoàn tàu không số”, ở đó, mỗi chuyến ra khơi chẳng khác nào cánh hải âu kiên cường vượt qua bão tố. Câu chuyện của các CCB giúp chúng tôi hiểu hơn về những gian khổ, hiểm nguy, những mất mát và sự hi sinh lớn lao của một thế hệ đã sống, chiến đấu, cống hiến trọn vẹn cho Tổ quốc, góp phần làm nên huyền thoại của đường Hồ Chí Minh trên biển.
Cuối năm 1963, khi đang là học sinh lớp 9, ông Hà Văn Bằng (xã Khánh Cư nay thuộc xã Yên Khánh) xung phong nhập ngũ. Sau 2 tháng huấn luyện và qua một đợt sơ tuyển, chọn lọc khắt khe, ông được biên chế về Tiểu đoàn 20 thuộc Lữ đoàn 125- “Đoàn tàu không số". Tại đây, ông được đơn vị phân công làm thủy thủ mặt boong, đảm nhận vị trí pháo thủ số 5.
Theo CCB Hà Văn Bằng cho biết: Ngày 23/10/1961, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đoàn 759 (tiền thân của Lữ đoàn 125, Vùng 2 Quân chủng Hải quân ngày nay) nhằm mở tuyến vận tải quân sự chiến lược Bắc-Nam bằng đường biển, tổ chức đưa, đón cán bộ, chiến sĩ và vũ khí chi viện cho cách mạng miền Nam. Để đảm bảo bí mật tuyệt đối, những con tàu phải ngụy trang thành tàu đánh cá, không có số hiệu cố định, liên tục thay đổi biển số, màu sơn, thậm chí cả hình dạng. Tên "Đoàn tàu không số" đã ra đời như vậy. Do tính chất thực thi nhiệm vụ đặc biệt, nên trước khi đi tất cả các chiến sĩ trên tàu đều được... “truy điệu sống”!
4 năm gắn bó với Đoàn tàu không số (1964-1968), ông Bằng và các đồng đội đã có 4 chuyến đi thành công. Mỗi chuyến đi là những kỷ niệm khó phai. Trong vô vàn kỷ niệm, ký ức đậm sâu với ông Bằng là hai chuyến vượt biển thành công dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh-người anh hùng biển cả. Một trong số đó là chuyến đi giáp Tết Ất Tỵ (1965), khi tàu ông được lệnh đưa hàng vào bến Trà Vinh.
CCB Hà Văn Bằng kể: Tuyệt đối bí mật là nhiệm vụ đặc biệt của chiến sĩ “Đoàn tàu không số”. Để đảm bảo an toàn, tất cả các hoạt động đón tàu vào, đưa tàu ra, bốc dỡ, vận chuyển hàng đều diễn ra vào ban đêm. Chuyến đi gần giáp Tết Ất Tỵ năm 1965, khi tàu vào đến vùng biển miền Nam, tôi và một đồng chí trực trên mũi tàu phát hiện tàu địch. Phương án chiến đấu được thông qua, kể cả việc cảm tử cho nổ tung khối thuốc nổ gắn sẵn trên tàu đã được tính đến… Để đánh lạc hướng của địch, thuyền trưởng Phan Vinh đã ra lệnh cho thủy thủ đoàn nhanh chóng mang lưới, bao giong lên boong thuyền, giả làm tàu đánh cá. Khi máy bay địch bay sát gần mũi tàu, thuyền trưởng vẫn bình tĩnh, kiên quyết không cho nổ súng. Chính sự mưu trí, dũng cảm này đã đánh lạc được địch. Ngay khi máy bay địch đi, thuyền trưởng Phan Vinh ra lệnh sơn lại boong tàu, thay biển số, và mở hướng khác chạy vào bờ. Nhờ sự mưu trí, dũng cảm và vững vàng của thuyền trưởng, tàu đã cập bến Trà Vinh an toàn, trong niềm vui vỡ òa của đồng bào, đồng chí miền Nam.
Theo ông Bằng, mỗi chuyến đi đều gặp khó khăn, bất trắc bởi thời tiết, bởi sự theo dõi, truy sát của kẻ địch, nhiều lần đối mặt với cái chết. Song nhờ sự mưu trí, khôn khéo, quyết đoán và tinh thần quả cảm của chỉ huy tàu và tập thể thuỷ thủ tàu, đơn vị ông Bằng đã có nhiều chuyến đi biển thành công. Năm 1965, ông vinh dự được kết nạp Đảng trên tàu. Năm 1966, ông Hà Văn Bằng là người duy nhất của đơn vị được cử về Hà Nội dự Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua toàn quốc.
Cùng nhập ngũ năm 1963 với ông Bằng và được biên chế vào “Đoàn tàu không số” có y tá Bùi Tất Thông (CCB Bùi Tất Thông hiện đang sinh sống tại phường Nam Hoa Lư-PV).
Nhớ lại quãng thời thanh xuân rực lửa, CCB Bùi Tất Thông chia sẻ: Để bảo vệ bí mật tuyệt đối trong sự kiểm soát gắt gao của địch, tất cả cán bộ, chiến sĩ phải ngụy trang thành ngư dân. Ngay cả đồ dùng, thuốc men, vật dụng y tế cũng phải tẩy xóa toàn bộ nhãn mác. Do đó, buộc cán bộ quân y trên tàu phải có trí nhớ tốt về hình dạng, mầu sắc các loại thuốc để điều trị bệnh. Thời đó, việc trang bị thuốc men, dụng cụ y tế phục vụ chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ, chiến sĩ trên tàu cũng rất hiếm, chủ yếu là bông băng và một vài vật dụng sơ cứu đơn giản. Do đó, trước mỗi chuyến đi, ông Thông đã đề nghị với Chính trị viên, các thuyền trưởng xin thêm vài tấm vải trắng rồi cắt ra, cuộn lại đặt sẵn ở các vị trí của các pháo thủ để khi cần có thể sử dụng, băng bó ngay được.
Theo ông Thông, vào những hôm biển động, trước những cơn sóng to, thuyền lại nhỏ bé thì dù là người có thể lực tốt đến mấy hoặc dù đã được rèn luyện nhiều qua các đợt “thử sóng”, các chiến sĩ trên tàu cũng không thoát được những trận say sóng đến mềm người. Những lúc đó rất cần cán bộ y sĩ hướng dẫn cách ăn uống, sinh hoạt để nhanh chóng phục hồi sức khoẻ.
Sinh hoạt, chiến đấu trong điều kiện vô cùng thiếu thốn, nguy hiểm, chưa kể sóng to gió lớn nhưng với ý chí quyết tâm sắt đá, mỗi cán bộ, chiến sĩ trên tàu chưa từng lùi bước, nỗ lực vượt qua khó khăn, hiểm nguy để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Biển cả mênh mông, với những con sóng bạc đầu và bão tố cuồng phong, không chỉ là chiến trường khốc liệt mà còn là chứng nhân thầm lặng cho lòng dũng cảm phi thường của những người lính "Đoàn tàu không số". Đối mặt với sự kiểm soát gắt gao của địch và hiểm nguy từ thiên nhiên, họ đã viết nên những trang sử hào hùng bằng trí tuệ, mưu lược và sự hy sinh quên mình.
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng mỗi khi nhắc về những chuyến đi trên biển, CCB Nguyễn Văn Hạnh- người lính báo vụ trong đội hình “Đoàn tàu không số” năm xưa vẫn nhớ rõ như in từng chuyến đi. Ông Hạnh hiện đang sinh sống tại phường Hoa Lư, nhập ngũ năm 1964, có 10 năm phục vụ trong Đoàn tàu "không số". Với ông, đó là những năm tháng thanh xuân rực lửa, và ở đó mỗi chuyến đi luôn có những kỷ niệm đặc biệt: từ những cuộc đấu trí khôn ngoan với tàu địch, đến những lần tàu mắc cạn phải nhờ đồng bào miền Nam hỗ trợ dỡ hàng, cho đến những khoảnh khắc chao đảo "mật xanh, mật vàng" giữa bão biển dữ dội. Nhưng trên tất cả, là niềm vui vỡ òa khi tàu cập bến an toàn, mang đến hy vọng cho đồng bào, đồng chí ở tiền tuyến.
Nhấp ngụm trà, đôi mắt nhìn xa xăm như thể đang dõi theo những con tàu năm xưa vẫn đang lướt sóng, CCB Nguyễn Văn Hạnh trầm ngâm: Một trong những chuyến đi mà đến bây giờ nhắm mắt lại tôi vẫn không thể quên được, đó là vào khoảng 17h30 ngày 18/5/1966, khi tàu đang trên đường đến Vịnh Hạ Long để lấy hàng chi viện cho miền Nam thì bất ngờ gặp 2 chiếc máy bay của không quân Mỹ, chúng đã điên cuồng phóng hai quả rocket trúng mũi tàu, khiến thuyền trưởng và chính trị viên hy sinh ngay trước mắt. Con tàu chết máy rồi từ từ chìm dần xuống biển. Dù bị thương nặng ở tay, tôi vẫn cố gắng chạy xuống boong tàu, vừa hô hoán mọi người tìm cách thoát, vừa vứt phao xuống biển.
Sau nhiều giờ lênh đênh trên biển, ông Hạnh may mắn được một tàu cá của ngư dân cứu vớt. Ngay sau khi vết thương bình phục, ông Hạnh lập tức xin trở lại đơn vị, tiếp tục tham gia "Đoàn tàu không số". Với ông Hạnh, những năm tháng thanh xuân được làm nhiệm vụ đặc biệt trong đội hình của đơn vị đặc biệt là một vinh dự lớn lao, nơi đó với lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc cùng sự yêu thương, chở che đùm bọc của chỉ huy và của đồng đội đã giúp ông vượt qua hiểm nguy, cái chết cũng trở nên nhẹ tựa lông hồng.
Với sự dũng cảm của những người lính, đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành huyền thoại-đó là con đường không dấu, tàu không số; không chỉ chuyên chở vũ khí, hàng hoá mà còn mang cả tình cảm, niềm tin, ý chí và khát vọng độc lập của miền Bắc dành cho miền Nam, góp phần làm nên thắng lợi cuối cùng của cả dân tộc.
Ông Nguyễn Quang Mùi, CCB "Đoàn tàu không số", quê ở xã Gia Phong, năm nay đã ở độ tuổi ngoại bát tuần vẫn không thể nào quên được những chuyến đi lịch sử trên đường Hồ Chí Minh giữa biển cả mênh mông. Suốt hơn 10 năm (1964-1974) gắn bó với Đoàn tàu không số, ông và đồng đội đã có 5 chuyến vượt biển, đưa hàng cập bến an toàn.
Ông Mùi nhớ lại: Sau sự kiện tàu ta bị lộ ở Vũng Rô năm 1965, địch càng phong toả gắt gao, rất nhiều con tàu đã ra đi không trở lại, nhiều cán bộ, chiến sĩ đã vĩnh viễn yên nghỉ nơi biển cả mênh mông. Trước tình hình đó, Quân ủy Trung ương quyết định tạm dừng việc vận chuyển vũ khí, hàng hóa quân sự vào Nam để nghiên cứu phương thức vận chuyển mới.
Ngày 15/10/1965, đơn vị của ông Mùi (Tàu mang mật danh 42) vinh dự được giao nhiệm vụ đi chuyến mở đường, chở 60 tấn vũ khí và 4 quả thủy lôi vào chiến trường miền Nam. Nhiệm vụ được giao là vận chuyển hàng đồng thời nghiên cứu tuyến đường vận chuyển mới, làm tiền đề cho những chuyến đi sau nhưng phải đảm bảo bí mật, bất ngờ. Dịp này đang thời kỳ gió mùa Đông Bắc, con tàu bé nhỏ cứ chao lắc. Do phải nghiên cứu tuyến đường vận chuyển mới nên tàu cứ đi lòng vòng ở hải phận quốc tế, hòa vào dòng tàu buôn nước ngoài ngược - xuôi trên biển. Nhiều ngày chống chọi với sóng gió, hầu hết các thủy thủ nôn ra mật xanh, mật vàng.
Trong khi đó, mặc dù đã cải trang thành tàu đánh cá, song máy bay, khu trục Mỹ vẫn nghi ngờ, bám riết theo tàu. Sau gần 10 ngày lênh đênh trên biển, mưu trí, dũng cảm đối phó với địch, Tàu 42 đã đánh lạc hướng và thoát được vòng vây của địch và cập bến Rạch Kiến Vàng an toàn. Ngoài súng đạn, đây là lần đầu tiên, các thủy thủ tàu không số đưa được thủy lôi vào cho bộ đội đặc công thủy.
Theo ông Mùi, chuyến đi mở đường thắng lợi của cán bộ, chiến sĩ Tàu 42 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ta đã nắm được quy luật hoạt động của địch để tìm cách ứng phó linh hoạt. Sau chuyến đi này, Ban Chỉ huy Tàu 42 được đi báo cáo kết quả với Quân ủy Trung ương và Bộ quốc phòng, vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và được Bác Hồ tặng cho mỗi thủy thủ một bao thuốc lá có ghi dòng chữ "Bác Hồ tặng".
Trong suốt 14 năm (1961-1975) thực hiện nhiệm vụ trên tuyến đường biển mang tên Bác, hàng trăm người con ưu tú của quê hương Ninh Bình đã tham gia và làm tròn nhiệm vụ ở đơn vị đặc biệt này. Có những người đã anh dũng hi sinh, để lại một phần thân thể của mình giữa biển cả bao la. Họ là những người đã góp phần làm nên tuyến đường huyền thoại, khắc ghi vào lịch sử một khúc tráng ca bất tử.
Cống hiến cả tuổi thanh xuân với tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, góp phần làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển, khi trở về đời thường, những người lính “Đoàn tàu không số” năm xưa vẫn luôn tìm đến nhau, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn bằng nghĩa tình đồng đội sâu nặng.
Lắng nghe các CCB chia sẻ về ký ức những năm tháng tham gia làm nhiệm vụ trên con đường huyền thoại- Đường Hồ Chí Minh trên biển, chúng tôi hiểu rằng, đó không chỉ là câu chuyện của riêng các CCB “Đoàn tàu không số”, mà đó còn là bản anh hùng ca chung của cả dân tộc, nhắc nhở chúng ta về giá trị của hòa bình và độc lập mà biết bao thế hệ đã đổ máu để gìn giữ.