Kinh tế phát triển, tốc độ tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, các nguồn lực huy động cho đầu tư phát triển tăng nhanh; cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện nhiều mặt, bộ mặt đô thị và nông thôn có nhiều đổi mới; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, quốc phòng được tăng cường, hệ thống chính trị được củng cố, dân chủ trong Đảng và nhân dân được mở rộng. Thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đấu tranh chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng có chuyển biết tích cực. Vị thế Ninh Bình được khẳng định và nâng cao, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Nhà thi đấu thể dục thể thao tỉnh Ninh Bình.
Kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng được tăng cường, văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt cao; tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn từ năm 1996-2000 đạt bình quân: 8,12%/ năm; từ năm 2001-2005 bình quân đạt 11,9%/năm; năm 2006 đạt 12,6%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Năm 1991, Nông, lâm, ngư nghiệp: 75,74%; Dịch vụ 6,08%; Công nghiệp - xây dựng: 18,18%, đến năm 2006, Nông nghiệp giảm còn 28%; Dịch vụ: 33%; Công nghiệp - xây dựng: 39%. Thu nhập bình quân đầu người năm 1991 đạt 0,51 triệu đồng, năm 2006 đạt 6,42 triệu đồng, tăng 12,5 lần. Thu ngân sách năm 1991 đạt 24,4 tỉ đồng, năm 2006 đạt 878 tỉ đồng, tăng 35,98 lần.
Nông nghiệp liên tục được mùa, phát triển toàn diện gắn với sản xuất hàng hóa trên cơ sở đảm bảo an ninh lương thực. Năm 1991 tổng sản lượng lương thực đạt 19,4 vạn tấn, năm 2006 đạt 48,4 vạn tấn; Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 1991 đạt 676 tỉ đồng, đến năm 2006 đạt 1.820 tỉ đồng, tăng 2,7 lần. Đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng được một số vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa tập trung gắn với cơ sở chế biến như: Vùng trồng cây vụ đông 15.000ha, trong đó 10.000 ha cây vụ đông trên đất 2 lúa, hiệu quả kinh tế cao; vùng lúa chất lượng cao 1.000 ha; vùng dứa 3.500 ha; vùng nuôi tôm sú, nuôi cua hơn 2.000 ha; vùng trồng, chế biến cói 2.000ha; vùng mía 1.500 ha; vùng cây ăn quả 4.000 ha.
Năm 2006, toàn tỉnh có 441 trang trại kinh doanh có lãi từ 20-100 triệu đồng, 154 trang trại nuôi lợn, 16 trang trại nuôi gia cầm theo hướng công nghiệp; 76 cánh đồng với diện tích 900 ha đạt giá trị thu hoạch 50 triệu đồng/ha/năm. Đặc biệt, thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TU ngày 14/4/2006 của Tỉnh ủy về "Đẩy mạnh phát triển sản xuất vụ đông đến năm 2010", vụ đông 2006 trở thành phong trào sản xuất mạnh mẽ. Toàn tỉnh gieo trồng được 14.322ha cây vụ đông, trong đó trên đất 2 lúa đạt 9.822ha, tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn, tạo điều kiện nâng cao đời sống của người nông dân.
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng khá, vốn đầu tư phát triển tăng nhanh. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1991 đạt 300,8 tỉ đồng, năm 2001 đạt 1.527 tỉ đồng, đến năm 2006 đạt 3590,7 tỉ đồng, tăng 11,93 lần.
Điểm nổi bật nhất là trong nhiều năm trở lại đây Ninh Bình đang trở thành tâm điểm thu hút vốn đầu tư của nhiều nhà đầu tư, nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn năm 1991 đạt 31 tỉ đồng, đến năm 2001 đạt 1174 tỉ đồng, năm 2006 đạt 4.080 tỉ đồng, tăng 133 lần so với năm 1991. Tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 2 khu công nghiệp và 22 cụm công nghiệp triển khai dự án đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp với số vốn hàng nghìn tỉ đồng và hàng chục triệu USD.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh các nhiệm kỳ từ năm 1992 đến nay, Ninh Bình đã và đang tập trung phát triển mạnh, nhanh công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sản phẩm chủ yếu là sản phẩm sản xuất xi măng, gạch tuy nen…Một số dự án đã đi vào sản xuất, kinh doanh có hiệu quả như cán thép, xi măng Tam Điệp, gạch Sông Chanh…Một số dự án đang triển khai tích cực như dự án xây dựng nhà máy Xi măng Vinakansai, Hướng Dương, Duyên Hà, Phú Sơn, Hệ Dưỡng. Một số dự án đang khẩn trương hoàn thiện các thủ tục để sớm triển khai như: Nhà máy sản xuất phân đạm (56vạn tấn/năm); Nhà máy nhiệt điện Ninh Bình giai đoạn II (công suất 300MW).
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển nhanh, nhiều làng nghề truyền thống như: Đá mỹ nghệ, thêu ren, chiếu cói và một số ngành nghề mới như sản xuất mộc nhĩ, nấm rơm…được khôi phục và phát triển đem lại giá trị lớn, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ 17.835 cơ sở năm 2001 tăng lên 21.348 cơ sở năm 2005, tăng bình quân 6,2%/năm.
Đường phố thành phố Ninh Bình. |
Nhà máy xi măng Tam Điệp. |
Kinh tế du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh với nhiều di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh. Tỉnh đang tập trung chỉ đạo hoàn thiện quy hoạch chi tiết các khu du lịch, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để thu hút các nhà đầu tư. 5 năm gần đây, tỉnh đã phê duyệt 26 dự án đầu tư vào lĩnh vực du lịch với tổng mức đầu tư gần 3,3 nghìn tỉ đồng, tập trung vào một số khu du lịch trọng điểm là: Khu du lịch Cố đô Hoa Lư, Khu du lịch Tràng An, Tam Cốc - Bích Động, Vườn quốc gia Cúc Phương, Khu du lịch sinh thái Vân Long, Khu du lịch tâm linh chùa Bái Đính (Gia Sinh, Gia Viễn),…Doanh thu du lịch năm 2006 đạt 87 tỉ đồng, tăng 31% so với năm 2005, khách du lịch đạt 1,3 triệu lượt, tăng 25%.
Thị trường hàng hóa đa dạng, tổng mức bán lẻ và dịch vụ trên thị trường tăng. Đã hình thành hệ thống thương mại hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Giá trị các ngành dịch vụ năm 1991 đạt 236 tỉ đồng, năm 2006 đạt 1.682 tỉ đồng, tăng 7,2 lần.
Tổng giá trị sản xuất hàng xuất khẩu năm 2006 đạt 25,3 triệu, trong đó một số mặt hàng có kim gạch xuất khẩu lớn như hàng thủ công mỹ nghệ, hàng nông sản chế biến…
Hệ thống cơ sở hạ tầng, phương tiện giao thông tiếp tục được đầu tư phát triển, đáp ứng yêu cầu vận tải hàng hóa và đi lại của nhân dân. Phong trào cứng hóa đường giao thông nông thôn được đẩy mạnh. Đến nay, tất cả các tuyến đường quốc lộ, đường liên huyện, liên xã đã được bê tông hóa hoặc rải nhựa, 85% đường giao thông nông thôn được cứng hóa.
Hệ thống lưới điện được đầu tư nâng cấp và mở rộng. Hoàn thành việc tiếp nhận và quản lý lưới điện trung áp nông thôn, từng bước triển khai việc bán điện trực tiếp đến hộ gia đình, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân.
Bưu chính - Viễn thông duy trì tốc độ phát triển theo hướng hiện đại, đa dạng hóa hình thức phục vụ, cơ bản đảm bảo thông tin liên lạc. Đến nay, 100% huyện, thị xã có đường truyền cáp quang, tạo thành lộ thông tin, phục vụ phát triển công nghệ thông tin. Hoàn thành việc đưa dịch vụ Internet đến 100% trường trung học phổ thông và 43 trường trung học cơ sở, bình quân số máy điện thoại đạt 10,6/100dân; đã xây dựng được 120 điểm Bưu điện văn hóa xã.
Hoạt động tài chính, ngân hàng có tiến bộ, kết quả thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước, tốc độ tăng khá nhanh. Tổng thu ngân sách trên địa bàn năm 1991 đạt 24,4 tỉ đồng, đến năm 2006 đạt 878 tỉ đồng, tăng 35,9 lần.
Tín dụng nguồn vốn huy động trên địa bàn năm 1992 đạt 31 tỉ đồng, đến năm 2006 đạt 2.382 tỉ đồng, tăng 76 lần so với năm 1992; Tổng doanh số cho vay năm 1992 đạt 173,5 tỉ đồng, năm 2006 đạt 8.372 tỉ đồng, tăng 48 lần.
Giáo dục - Đào tạo phát triển cả quy mô và chất lượng, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, quy mô giáo dục ở các ngành học, cấp học tiếp tục phát triển, công tác xã hội hóa giáo dục, hoạt động Khuyến học phát triển mạnh; chất lượng giáo dục mũi nhọn được duy trì, số học sinh giỏi đạt giải Quốc gia từ 1 em năm 1992, đến nay mỗi năm có từ 40 đến 70 em đạt giải Quốc gia, có 4 em đạt giải Quốc tế. Cơ sở vật chất phục vụ dạy và học được tập trung đầu tư, 100% trường học được kiên cố, cao tầng, trong đó 80% trẻ em trong độ tuổi đến nhà trẻ, 93% trẻ em trong độ tuổi đến các lớp mẫu giáo, 100% trẻ em đến độ tuổi vào lớp 1. Toàn tỉnh có 189 trường đạt chuẩn Quốc gia, 8/8 huyện, thị xã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở, là tỉnh xếp thứ 3 toàn quốc về trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Tháng 12/2002, Ninh Bình được công nhận là tỉnh đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở, năm 2003 là tỉnh thứ 16 đạt chuẩn phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi. Năm 2006, 3 trường Trung học chuyên nghiệp được nâng cấp lên Cao đẳng. Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Bình được Chính phủ đồng ý chuyển thành trường Đại học Ninh Bình. Năm 2005, ngành Giáo dục - Đào tạo được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba; 2 lần được Chính phủ tặng cờ thi đua; 3 lần được Bộ Giáo dục - Đào tạo tặng Cờ thi đua xuất sắc.
Công tác Y tế, Dân số - Gia đình và Trẻ em được quan tâm, chất lượng các dịch vụ y tế và y đức của người thầy thuốc được nâng lên, một số dịch vụ y tế được triển khai có hiệu quả. Ninh Bình đã loại trừ bệnh phong trên quy mô toàn tỉnh năm 2001; đến nay đã có 82/145 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn Quốc gia về Y tế. Các chỉ tiêu cơ bản về dân số, gia đình và trẻ em đều đạt kết quả cao, mức giảm tỷ lệ sinh năm 2006 là 0,22%o, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 23,5%.
Các hoạt động văn hóa - văn nghệ phát triển mạnh, đặc biệt là văn hóa cơ sở phục vụ kịp thời, có hiệu quả nhiệm vụ kinh tế - xã hội, thiết chế văn hóa được quan tâm đầu tư. Đến năm 2006, 7/8 huyện, thị xã có nhà văn hóa, 500 thôn, xóm , phố có nhà văn hóa. Bảo tàng Ninh Bình, Thư viện tỉnh, Trung tâm chiếu phim tỉnh được xây dựng, đưa vào hoạt động có hiệu quả. Năm 1992, có 18 di tích cấp Quốc gia, đến năm 2006, có 78 di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia, trong đó Cố đô Hoa Lư được xếp hạng là Di tích lịch sử đặc biệt; Nhà hát chèo Ninh Bình được đầu tư, hoạt động có hiệu quả, đạt nhiều thành tích, 2 lần đoạt Huy chương vàng cấp Quốc gia, có 6 nghệ sỹ được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sỹ ưu tú. Toàn tỉnh có 145 câu lạc bộ văn hóa - văn nghệ thôn, xóm, phố,…
Phong trào thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, được cán bộ, đảng viên và các tầng lấp nhân dân đồng tình hưởng ứng. Hiện đã có 1.616/1.616 thôn, tổ dân phố xây dựng hương ước, quy ước, có 731 làng văn hóa, có 175.021 gia đình đạt danh hiệu "Gia đình văn hóa", 1.072/1.638 khu dân cư tiên tiến, đạt 65,5%.
Ngành văn hóa - Thông tin tỉnh 4 lần được Bộ Văn hóa - Thông tin tặng Cờ thi đua xuất sắc. Năm 2005, được Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhì.
Công tác báo chí, phát thanh truyền hình có chuyển biến tích cực, 100% địa bàn dân cư được phủ sóng phát thanh, 100% xã, phường, thị trấn có hệ thống truyền thanh, trên 90% địa bàn dân cư trong tỉnh được phủ sóng truyền hình; thời lượng phát thanh, truyền hình ngày một tăng, chất lượng hoạt động ngày càng tốt hơn, đảm bảo tuyên truyền đúng định hướng, đổi mới cả nội dung, hình thức, bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, tập trung tuyên truyền kịp thời các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các mô hình, điển hình tiên tiến.
Thể dục - Thể thao Ninh Bình có nhiều tiến bộ, phong trào thể dục - thể thao quần chúng phát triển cả về số lượng, chất lượng. Các vận động viên của tỉnh tham gia thi đấu giải Quốc tế và Quốc gia giành kết quả cao. Đến nay, toàn tỉnh có 22% dân số tham gia tập luyện thể dục - thể thao thường xuyên, 17% số gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình thể thao (tăng 10% so với năm 1992), có 450 câu lạc bộ thể dục - thể thao được thành lập và có trên 50 nhà tập thể dục - thể thao của tỉnh và sân vận động đạt tiêu chuẩn Quốc gia, khu vực đủ tiêu chuẩn để đăng cai các giải thể thao Quốc gia và Quốc tế, nhất là đã tổ chức thành công giải bóng chuyền Seagame 22 (năm 2003) tại Nhà thi đấu thể dục - thể thao tỉnh. Thể thao thành tích cao từng bước đạt được những thành tích đáng phấn khởi, vận động viên các môn thể thao tham gia thi đấu tại các giải Quốc gia, Quốc tế đạt gần 500 huy chương các loại, trong đó tham gia thi đấu các giải Quốc tế và Khu vực Đông Nam Á đoạt hơn 40 huy chương. Năm 2006, đội bóng chuyền nam hạng mạnh của tỉnh giành chức vô địch tại giải bóng chuyền các đội mạnh toàn quốc. Năm 2004, ngành Thể dục - Thể thao tỉnh được Ủy ban Thể dục thể thao Quốc gia tặng cờ xuất sắc dẫn đầu cụm thi đua số II (gồm 9 tỉnh đồng bằng sông Hồng)…
Đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện nhiều mặt. Đến nay 65,5% hộ dân được dùng nước sạch, nước sinh hoạt đảm bảo vệ sinh; 99% số hộ dân được dùng điện thắp sáng.
Chính sách xã hội được quan tâm thường xuyên, nhất là chăm sóc người có công. Cơ bản đảm bảo các đối tượng chính sách có mức sống tương đương với các hộ có mức sống trung bình ở địa phương. Xây mới 117 nhà tình nghĩa, sửa chữa và làm mới 2.594 nhà Đại đoàn kết.
Công tác xóa đói giảm nghèo được tập trung chỉ đạo thực hiện trở thành việc làm tình nghĩa, mỗi năm giải quyết việc làm cho 16.000 -17.000 lao động, trong đó có từ 1.500 - 2.500 lao động xuất khẩu. Năm 2005 tỉnh đã hoàn thành xóa nhà tranh tre, vách đất cho 1.750 hộ ngheo, tỷ lệ hộ nghèo năm 2006 còn 15%.
Công tác quốc phòng địa phương được tăng cường, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đảm bảo cuộc sống bình yên cho nhân dân và môi trường xã hội lành mạnh.
Phong trào thi đua "Vì an ninh Tổ quốc", "Thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân", phong trào quần chúng "Bảo vệ an ninh Tổ quốc", "Đảm bảo an toàn giao thông", " Tổ dân phố tự quản về an ninh trật tự", "Tổ dân phố 3 giảm". Phong trào thi đua "Sáng mãi phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ", "Xây dựng nền quốc phòng toàn dân", thi đua "Quyết thắng" trong lực lương vũ trang nhân dân được phát động liên tục, rộng khắp, đã góp phần trực tiếp giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng - an ninh, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, phát hiện, giải quyết kịp thời các vấn đề phức tạp nảy sinh, không để xảy ra điểm nóng.
Công an tỉnh được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất, năm 2006 được Bộ Công an tặng Cờ thi đua xuất sắc; Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì.
- Các ngành Tòa án, Kiểm sát, Thanh tra, Tư pháp đẩy mạnh phong trào thi đua "Cải cách tư pháp", làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật; giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại của công dân, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường kỷ cương, pháp luật; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hệ thống chính trị được củng cố, chất lượng hoạt động được nâng lên; cán bộ, đảng viên, nhân dân trong tỉnh đoàn kết, thống nhất, chung sức xây dựng quê hương.
Công tác xây dựng Đảng được tập trung chi đạo toàn diện trên cả 3 mặt: Chính trị, tư tưởng, tổ chức; việc thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt được nhiều kết quả, công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh được coi trọng, năng lực, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đã có sự đổi mới thực sự về chất: "Đoàn kết, quyết tâm, trách nhiệm, hiệu quả" chủ trương hướng về cơ sở được triển khai thực hiện tốt, lòng tin của nhân dân đối với Đảng được nâng lên. Hàng năm, trung bình có hơn 80% cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng có hiệu quả. Chính quyền các cấp, các sở, ban, ngành đã có đổi mới theo hướng tích cực, sâu sát cơ sở, phục vụ nhân dân, giảm phiền hà, tiêu cực. Năm 2005, có 112/145 xã, phường được công nhận chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh, đạt 72,2%, không còn đơn vị yếu kém.
Cầu Non nước - Ninh Bình
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã động viên các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tích cực tham gia cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa"; Phong trào "Ngày vì người nghèo", "Tặng nhà đại đoàn kết", "Xây dựng xứ đạo, họ đạo tiên tiến", "Sống tốt đời đẹp đạo"; công nhân, công chức, viên chức với phong trào: "Lao động giỏi, lao động sáng tạo, năng suất chất lượng và nâng cao thu nhập", "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc", "Giỏi việc nước, đảm việc nhà, giúp nhau làm kinh tế gia đình", "Nuôi con khỏe, dạy con ngoan", "Hội Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, giúp nhau xóa đói giảm nghèo", "Xây dựng gia đình Cựu chiến binh văn hóa". Đoàn Thanh niên với phong trào thi đua "Học tập vì ngày mai lập nghiệp", "Tuổi trẻ sáng tạo", "Tuổi trẻ giữ nước", "Thanh niên tình nguyện". Các cuộc vận động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể có tác động to lớn, tạo sự đồng tình và hưởng ứng của toàn dân, đã tập hợp, động viên, giáo dục đoàn viên, hội viên đi đầu thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Năm 2005, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Hội phụ nữ tỉnh được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba.
Chặng đường hơn 30 năm phấn đấu liên tục (1975-2007), hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986-2007), trong đó có 15 năm từ khi tái lập tỉnh, kinh tế Ninh Bình thoát khỏi tình trạng suy thoái trì trệ, đình đốn, phát triển liên tục, đồng đều với tốc độ nhanh. Bộ mặt kinh tế - xã hội, nhất là khu vực nông thôn thay đổi, tiến bộ rõ nét, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện cả về vật chất và tinh thần, quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố…
Những nỗ lực to lớn của Đảng bộ, quân và dân Ninh Bình đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận. Tháng 3/2007 Ninh Bình vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba. Những thành tựu quân và dân Ninh Bình đạt được đã và đang góp phần cùng cả nước thực hiện thành công công cuộc đổi mới và vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.