Tôi chưa từng nghĩ rằng có một ngày mình sẽ đặt chân đến Trường Sa, mảnh đất thiêng liêng giữa trùng khơi Tổ quốc. Và tôi cũng chưa từng nghĩ rằng, chính nơi ấy, giữa tiếng sóng vỗ miên man và nắng gió bỏng rát, tôi lại tìm được cho mình những bài học sâu sắc nhất về nhân sinh, về nghề báo và về lòng yêu nước.
Đảo đá tây. Ảnh: Ninh Mạnh Thắng
Những bước chân đầu tiên trên đảo
Chuyến đi công tác đầu tiên ra Trường Sa đến với tôi không giống bất kỳ chuyến tác nghiệp nào trước đó. Đoàn công tác của chúng tôi rời cầu cảng Cam Ranh (Khánh Hòa) vào đầu giờ chiều một ngày cuối năm. Sau những tiếng còi tàu vang xa, để lại sau lưng đất liền thân thuộc là những ánh mắt dõi theo của người thân, đồng nghiệp.
Lần đầu được ra đảo, chúng tôi-những nữ nhà báo cùng chung một phòng B7-tàu HQ 571 chen nhau để nhìn đại dương qua ô cửa kính, tận hưởng cánh sóng dập dờn soi chiếu với màu nắng cuối ngày tạo ra những tia sáng phản chiếu lấp lánh thật đẹp. Sóng mỗi lúc một cao, gió mỗi lúc một mạnh. Tôi bắt đầu hiểu được thế nào là “muôn trùng sóng gió”, không chỉ là những cơn say sóng vật vã mà còn là cảm giác choáng ngợp trước sự bao la của biển cả và những thử thách đang chờ đợi. Gần 1 tuần lênh đênh trên biển, chúng tôi mới tiếp cận được đảo Song Tử Tây.
Nhìn từ xa, Song Tử Tây như một khu rừng thu nhỏ mọc lên giữa đại dương. Màu xanh của cỏ cây hòa quyện với màu xanh của biển tạo nên màu xanh thanh bình. Cái mệt mỏi, khó khăn lần đầu tiên ra đảo bỗng nhiên tan biến trong nụ cười ấm áp, thân thương chào đón của các chiến sĩ, trong ánh mắt hồn nhiên, trong trẻo như ánh mặt trời buổi sớm của những đứa trẻ theo cha mẹ ra sống ở đảo. Hình ảnh 2 em nhỏ bám tay người chiến sĩ trẻ lắc lư qua lại nhìn chúng tôi như chờ đợi một lời hỏi thăm từ đất liền, làm tôi nghẹn lời.
Cuộc sống trên các đảo Trường Sa bình yên đến lạ kỳ. Cả ngày trời, những đứa trẻ lon ton chạy trong sân trường tiểu học nhỏ bé ven biển. Trên Cột cờ, Quốc kỳ tung bay rực rỡ trong nắng. Người lính trẻ ở đảo Song Tử Tây dẫn tôi đi, tay chỉ vào dãy nhà mái đỏ ẩn hiện dưới tán cây bàng vuông: “Nhà báo xem, ở đây cũng có thầy cô, có tiếng trống trường, có cả tiếng cười con trẻ…”. Một bé trai lớp 3 hồn nhiên nắm tay tôi hỏi: “Cô ơi, ngoài đất liền có nhiều xe máy không ạ? Ở đây cháu đi bộ suốt.” Tôi mỉm cười, nghẹn ngào không đáp. Giữa biển cả, những điều bình thường nhất của đất liền lại trở thành giấc mơ của tuổi thơ các em.
Ở đảo, tôi đã gặp những người thầy giáo già, sắp đến tuổi nghỉ hưu vẫn tình nguyện ra đảo dạy chữ cho con em Nhân dân trên đảo. Họ mang theo không chỉ sách vở mà còn mang theo cả niềm tin, ước mơ và khát vọng được tiếp tục cống hiến. Thầy giáo Phan Quang Tuấn, công tác tại đảo Sinh Tồn tâm sự: “Tôi từng ước một lần được đứng lớp giữa Trường Sa, nay ước mơ thành sự thật. Tôi muốn ở lại đây đến khi nào sức khỏe không còn cho phép nữa”. Giọng thầy nhẹ như gió, mà như đinh khắc vào tâm trí tôi.
Các chiến sĩ luyện tập võ thuật trên đảo.
Đêm nằm nghe sóng vỗ vào giấc mơ
Đêm đầu tiên ở đảo, tôi không thể chợp mắt!
Không phải vì say sóng, không phải vì nhớ nhà, mà là vì tôi lắng nghe lần đầu tiên trong đời tiếng sóng vỗ vào ghềnh đá trong một không gian hoàn toàn tĩnh lặng. Không ồn ào, không đèn đường, chỉ có trăng non treo lơ lửng trên đầu và tiếng gió khẽ hú qua những rặng phi lao, những hàng phong ba gầy guộc.
Tôi nằm trong căn phòng công vụ đơn sơ, cửa sổ không kín, gió biển luồn vào mằn mặn. Tôi nghe tiếng người lính gác đêm dậm chân cho đỡ lạnh, nghe tiếng bước chân rón rén của người chiến sĩ thay ca. Căn chòi canh ngoài rìa đảo như một chấm nhỏ giữa màn đêm đen đặc, nhưng ánh đèn từ đó không hề tắt. Tôi hiểuTrường Sa không bao giờ ngủ.
Sáng hôm sau, tôi ra ngắm dãy nhà làm việc đã sờn rêu trên đảo Song Tử Tây, nước sơn đã phai màu vì muối biển. Tường có chỗ rộp lên, mái tôn rỉ sét. Những công trình ấy như thân thể của đảo chịu đựng bão gió, nắng lửa, muối mặn năm này qua năm khác. Trò chuyện với Thượng tá Nguyễn Văn Khương, Chính trị viên đảo Song Tử Tây, người đã gắn bó quá nửa cuộc đời binh nghiệp nơi đầu sóng ngọn gió. Anh kể về những mùa bão trắng trời, những đêm trực xuyên đêm, những cái Tết không kịp gọi điện thoại về nhà… và những lá thư tay gửi vội từ đất liền như hơi ấm của quê hương. Anh chia sẻ “Chúng tôi ở đây để giữ đất, giữ trời, giữ cả bình yên cho hậu phương. Những gì chúng tôi hi sinh chỉ là một phần nhỏ bé trong nghĩa vụ và trách nhiệm với Tổ quốc.”
Có lẽ, không một ngọn gió nào mạnh hơn ý chí của những con người ấy. Không một cơn sóng nào lớn bằng tấm lòng của người lính biển. Và không một cột mốc chủ quyền nào kiên cường hơn chính tinh thần sống và giữ đảo của họ, lặng lẽ mà rực rỡ, như ngọn đèn Hải đăng không bao giờ tắt giữa biển đêm.
Nhà báo Nguyễn Thơm phỏng vấn Thượng tá Nguyễn Văn Khương, Chính trị viên đảo Song Tử Tây (Quần đảo Trường Sa).
Bài học từ Trường Sa
Tôi đã từng nghĩ, thành công của người làm báo là những giải thưởng, là tên tuổi được nhắc đến, là những bài báo có lượt đọc cao. Nhưng ở Trường Sa, tôi được học lại cách đo lường giá trị của cuộc đời. Ở nơi mà mỗi bước chân là dặm dài xa xôi, mỗi giọt nước là điều quý giá, mỗi nụ cười là chiến thắng trước gian khó. Tôi chợt nhận ra rằng, sự hi sinh không phải lúc nào cũng có ánh hào quang, nhưng nó tạo nên nền móng vững chãi cho quốc gia.
Tôi nhìn thấy những cột mốc chủ quyền không chỉ bằng bê tông cốt thép, mà bằng sự hi sinh của máu, mồ hôi và nước mắt của bao thế hệ. Mỗi lá cờ đỏ bay phần phật giữa nắng gió là một tuyên ngôn bất diệt về chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Và tôi thay đổi. Tôi thay đổi cách nhìn về nghề báo, không chỉ là “làm tin”, “viết bài”, mà là sẻ chia, là kết nối, là có trách nhiệm với cộng đồng và Tổ quốc. Tôi thay đổi cách nghĩ về sự thành công, không phải là được vinh danh, mà là có thể góp phần nhỏ bé để sự thật được biết đến, để những con người thầm lặng được tỏa sáng.
Trở về đất liền, tôi mang theo nắng gió Trường Sa trong tim. Những bài học quý báu tôi nhận được không có trong bất kỳ giáo trình nào. Tôi hiểu thêm về sự dấn thân, về lý tưởng sống, về niềm tin và cả nghĩa vụ thiêng liêng mà người làm báo mang theo trong từng con chữ.
Tôi biết, cuộc đời mình sẽ còn nhiều chuyến đi, nhiều câu chuyện cần kể. Nhưng có lẽ, sẽ không có nơi nào làm tôi rơi nước mắt nhiều như khi đến Trường Sa, không phải vì buồn, mà vì lòng biết ơn và xúc động sâu sắc. Bởi Trường Sa không chỉ là tên của một quần đảo. Trường Sa là biểu tượng sống động của tình yêu Tổ quốc, là cột mốc của lòng trung thành, là nơi mà mọi sự hi sinh dù thầm lặng đều trở thành ánh sáng bất diệt giữa đại dương.
Một phần trái tim tôi đã ở lại nơi ấy, nơi mà mỗi ngọn sóng đều hát lời yêu nước, mỗi hạt muối đều mang vị của gian khó, và mỗi người giữ đảo là một câu chuyện bất tử về lòng trung thành với Tổ quốc, như lời ca thiết tha mà xúc động của người chiến sĩ trẻ trong đêm Giao thừa trên đảo: “Tôi đang nghe Tổ quốc gọi tên mình/Bằng tiếng sóng Trường Sa-Hoàng Sa dội vào ghềnh đá/ Sóng cuồn cuộn lên dáng hình đất nước/ Một tấc biển cắt rời, vạn tấc đất đớn đau”…