So với Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004, năm 2005, Luật tố cáo năm 2011 đã có nhiều nội dung mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người tố cáo; tăng cường tính công khai, minh bạch trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố cáo. Cụ thể như sau:
Mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật để bao quát hết việc tố cáo và giải quyết tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật diễn ra trên thực tế
Trên thực tế, các hành vi vi phạm pháp luật diễn ra rất đa dạng và phức tạp, nó có thể được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, với tính chất, mức độ vi phạm khác nhau, xâm phạm đến những quan hệ xã hội khác nhau được pháp luật bảo vệ. Về nguyên tắc thì các hành vi vi phạm pháp luật phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh; Nhà nước phải có cơ chế để khuyến khích, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để người dân phát hiện, tố cáo, phản ánh với các cơ quan nhà nước về hành vi vi phạm pháp luật. Thời gian qua trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Nhà nước ta đã ban hành Luật khiếu nại, tố cáo vào năm 1998 và đã được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm 2004, 2005, đồng thời có nhiều quy định để điều chỉnh về tố cáo và giải quyết tố cáo trong các lĩnh vực, tạo thành hệ thống pháp luật đồng bộ điều chỉnh về vấn đề này. Tuy nhiên với tư cách là đạo luật gốc điều chỉnh những vấn đề cơ bản, chung nhất về tố cáo và giải quyết tố cáo thì nội dung của Luật khiếu nại, tố cáo chưa bao quát, chưa đáp ứng được yêu cầu của việc giải quyết những tố cáo đang phát sinh trên thực tiễn. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đặt ra, khắc phục tình trạng bất cập hiện nay, trong quá trình xây dựng Luật tố cáo thì việc xác định phạm vi điều chỉnh của Luật là vấn đề hết sức quan trọng cần phải được làm rõ.
Quy định trong Luật khiếu nại, tố cáo cho thấy giữa phạm vi điều chỉnh và thẩm quyền, trình tự giải quyết tố cáo chưa có sự thống nhất. Tại Khoản 2 Điều 1 thì công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Đồng thời, tại chương I - Những quy định chung và chương VII- Giám sát công tác giải quyết tố cáo, Chương VI- quản lý về công tác giải quyết tố cáo thì cho thấy phạm vi điều chỉnh là việc tố cáo và giải quyết tố cáo trong tất cả các lĩnh vực. Trái lại, các quy định về thẩm quyền và thủ tục giải quyết lại chỉ tập trung vào việc giải quyết tố cáo đối với cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính. Sự không nhất quán, thiếu thống nhất trong cách quy định đó đã gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức, thực hiện.
Để khắc phục tình trạng này, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, căn cứ vào những quy định của các văn bản pháp luật có liên quan, Luật tố cáo mở rộng phạm vi điều chỉnh, nhằm bao quát hết việc tố cáo và giải quyết tố cáo đang diễn ra, trên cơ sở phân định rõ hành vi vi phạm pháp luật và đối tượng có hành vi bị tố cáo để xác định quy trình giải quyết cho phù hợp. Theo đó có: (1) tố cáo hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ; (2) tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Bên cạnh đó, Luật tố cáo bổ sung nhiều quy định mới về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo; công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý người có hành vi vi phạm bị tố cáo; bảo vệ người tố cáo...Những quy định mới đó nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch trong việc tố cáo, giải quyết tố cáo, đề cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố cáo, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo.
Quy định đầy đủ hơn về quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo
Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Luật tố cáo đã quy định đầy đủ, chi tiết, chặt chẽ về quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo.
Đối với người tố cáo, so với quy định hiện hành thì Luật tố cáo đã bổ sung thêm một số quyền cho người tố cáo như: được giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của mình; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc thụ lý giải quyết tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết; tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết; được khen thưởng theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, Luật tố cáo đã bổ sung người tố cáo có thêm các nghĩa vụ: cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được; bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra.
Đối với người bị tố cáo, Luật đã bổ sung có thêm một số quyền: nhận thông báo kết luận nội dung tố cáo; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật; được xin lỗi, cải chính công khai do việc tố cáo, giải quyết tố cáo không đúng gây ra; được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại do việc giải quyết tố cáo không đúng gây ra.
Bên cạnh đó, Luật tố cáo đã có quy định mới về quyền, nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo, cụ thể là người giải quyết tố cáo có các quyền: Yêu cầu người tố cáo cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo; yêu cầu người bị tố cáo giải trình bằng văn bản về hành vi bị tố cáo; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo; tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ để giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để ngăn chặn, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật; kết luận về nội dung tố cáo; quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Tương ứng với các quyền trên thì người giải quyết tố cáo cũng phải có các nghĩa vụ: bảo đảm khách quan, trung thực, đúng pháp luật trong việc giải quyết tố cáo; áp dụng các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp để bảo vệ người tố cáo, người thân thích của người tố cáo, người cung cấp thông tin có liên quan đến việc tố cáo; không tiết lộ thông tin gây bất lợi cho người bị tố cáo khi chưa có kết luận về nội dung tố cáo; chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết tố cáo; bồi thường, bồi hoàn thiệt hại do hành vi giải quyết tố cáo trái pháp luật của mình gây ra.
Thẩm quyền giải quyết tố cáo được bổ sung và quy định một cách đầy đủ
Để phù hợp với việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật, thẩm quyền giải quyết tố cáo đã được quy định một cách đầy đủ hơn, tương ứng với việc giải quyết đối với hai loại hành vi vi phạm pháp luật nêu trên. Đó là thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ và thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.
Đối với loại thứ nhất, hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ, Luật tố cáo đã quy định cụ thể thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan khác của nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Ngoài ra, Luật cũng đã có quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi pháp luật của những người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức.
Còn đối với loại thứ hai, hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực, Luật quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền và trình thự, thủ tục giải quyết
Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo được quy định cụ thể đối với các nhóm hành vi vi phạm
Trên cơ sở kế thừa những quy định còn phù hợp của pháp luật hiện hành, Luật tố cáo đã quy định đầy đủ, cụ thể, chi tiết hơn về trình tự thủ tục giải quyết phù hợp với tính chất, đặc điểm và yêu cầu của việc giải quyết đối với từng loại tố cáo như: Hình thức tố cáo, xử lý trường hợp nhiều người cùng tố cáo về một nội dung; về tiếp nhận xử lý thông tin tố cáo; xác minh nội dung tố cáo; kết luận nội dung tố cáo và quyết định xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo; gửi kết luận nội dung tố cáo; việc tố cáo tiếp và giải quyết tố cáo tiếp; việc công khai kết luận nội dung tố cáo và quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo.
Xây dựng cơ chế hữu hiệu bảo vệ người tố cáo
Luật tố cáo đã bổ sung một chương mới quy định về bảo vệ người tố cáo, trong đó quy định cụ thể về phạm vi, đối tượng và thời hạn bảo vệ; quyền và nghĩa vụ của người tố cáo được bảo vệ; bảo vệ bí mật thông tin về người tố cáo; bảo vệ người tố cáo tại nơi công tác, làm việc; bảo vệ người tố cáo tại nơi cư trú; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo.
Một số điểm mới khác
Ngoài những nội dung nêu trên, Luật tố cáo còn bổ sung một số nội dung khác như:
- Nguyên tắc giải quyết tố cáo: Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo. Nội dung này cũng được cụ thể hóa bằng các quy định tại khoản 1 Điều 10 về quyền của người bị tố cáo và tại điểm c khoản 2 Điều 11 về nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo (không tiết lộ thông tin gây bất lợi cho người bị tố cáo khi chưa có kết luận về nội dung tố cáo).
- Những hành vi bị nghiêm cấm: Đã quy định cụ thể và chi tiết hơn về các hành vi bị nghiêm cấm như nghiêm cấm hành vi lợi dụng việc tố cáo để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích Nhà nước…(Điều 8).
- Quy định rõ hơn về Trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo có trách nhiệm bố trí trụ sở tiếp công dân hoặc địa điểm tiếp công dân để tiếp nhận tố cáo, khiếu nại, kiến nghị, phản ánh. Việc tổ chức tiếp công dân tại trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân được thực hiện theo quy định của Luật khiếu nại và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Xác định rõ trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết tố cáo như: Trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu; phối hợp xử lý đơn thư, giải quyết, quản lý nhà nước về công tác giải quyết tố cáo.
N.H