Thật khó hình dung được một người yêu văn hóa Tây Nguyên như thế lại là một người con của quê hương Ninh Bình. Ông Hữu kể: Năm 1966, nghe theo tiếng gọi của Đảng, ông khoác ba lô tạm biệt quê hương Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình vào chiến trường Tây Nguyên đánh Mỹ. Sau ngày giải phóng, ông gắn bó với ngành Văn hóa - Thông tin hàng chục năm rồi chuyển gia đình vào thành phố Hồ Chí Minh sinh sống.Với chức vụ Trưởng phòng Thông tin cổ động, hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và chiếc máy ảnh trong tay ông thường xuyên bám các làng của người Jrai, Bahnar ở Gia Lai; Giẻ-Triêng, Xơ Đăng, Rơ Măm, Brâu ở Kon Tum vừa sưu tầm văn hóa dân gian, vừa viết báo và nặn tượng nên ông rất hiểu văn hóa Bắc Tây Nguyên.
Sống với Tây Nguyên nắng gió đại ngàn, ấn tượng đeo bám ông mãi mãi là mỗi khi chiều tà, bóng các cô thiếu nữ Tây Nguyên giã gạo bằng tay đẹp đến mê hồn. Và khi văn hóa của các tộc người Bắc Tây Nguyên đã ngấm vào máu thịt của ông thì niềm đam mê sưu tầm văn hóa vật thể xuất hiện. Ông tâm huyết với văn hóa vật thể Bắc Tây Nguyên và sống hết mình với nó, nên mỗi khi đi công tác cơ sở, trong túi có đồng nào ông lại dốc hết để mua lại cổ vật của đồng bào dân tộc thiểu số và đem về cất tại nhà riêng ở thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai-nơi gia đình ông cư trú trước kia. Thậm chí, khi nghe điện thoại của người bạn thân báo ở Kon Tum có món ghè rất lạ là ông bật dậy, lao xe máy lên đó luôn để mua lại món đồ đặc biệt ấy. Có thể nói, cả cuộc đời ông gắn bó với nền văn hóa Tây Nguyên. Ông tâm huyết với văn hóa vật thể Bắc Tây Nguyên và sống hết mình với nó..
Ngoài các ghè cổ, ông sưu tầm các loại nhạc cụ như: Chiêng, các loại đàn, tượng gỗ, các dụng cụ lao động, sinh hoạt, các loại bẫy thú rừng. Nhiều áo khố có giá trị bản gốc vì nó được làm bằng sợi cây nhuộm và dệt hoa văn độc đáo bằng tay đã lưu giữ. Các dụng cụ phục vụ các lễ hội tâm linh như: Con rối, mặt nạ, tượng gỗ... Ông có cả một bộ dụng cụ săn voi, dụng cụ lao động thời kỳ đồ đá. Trong bộ sưu tập của ông có cả bình gốm cổ thời nhà Lý, có cả kiếm thời Tây Sơn. Ông cho rằng cuộc sống đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên đang ngày càng được cải thiện và phát triển theo đó bản sắc văn hóa đang dần mai một. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại nhưng sự khôi phục chưa được nhiều và chưa đồng đều. Tây Nguyên mất dần tiếng chày giã gạo vì máy xay xát đã về đến đầu làng. Nhà rông đối với đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên thiêng liêng như thế nhưng việc xây dựng bây giờ không còn đặc trưng vốn có, mái nhà tôn đã thay thế mái nhà tranh và mất dần tính cộng đồng. Hết rồi cái phong tục chàng trai muốn về với cô gái phải tự tay đan một cái gùi đẹp để tặng người yêu. Các cô gái không còn dành ra nhiều mùa rẫy để dệt một bộ đồ thổ cẩm. Ông nhớ lại khi còn công tác, ông được tháp tùng một vị Giáo sư người Philippines đi tìm hiểu về văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Vị Giáo sư nhờ ông mua cho một bộ đồ thổ cẩm và nói rằng 20 năm nữa các anh phải tìm tôi mà xem các hiện vật gốc thế này. Từ câu nói đó, trong ông càng củng cố ý thức sưu tầm và giữ gìn văn hóa vật thể Bắc Tây Nguyên.
Cuộc sống mưu sinh, ông vào thành phố Hồ Chí Minh và bộ sưu tầm ấy cùng theo ông vào thành phố mang tên Bác. Thỉnh thoảng ông và một số người bạn cùng sở thích sưu tầm về Tây Nguyên lại cùng nhau tổ chức triển lãm giới thiệu cho người dân thành phố Hồ Chí Minh về văn hóa vật thể Tây Nguyên. Bây giờ tuổi đã cao ông lại mắc căn bệnh hiểm nghèo. Có người muốn mua toàn bộ bộ sưu tập của ông với giá nhiều tỷ đồng nhưng ông không bán. Hàng ngày ông vẫn lau chùi, ngắm nghía và căn dặn con mình sẽ bảo quản và giữ gìn.
Bài, ảnh: Văn Thư
Báo Gia Lai
Ghi chú: Bắc Tây nguyên gồm 2 tỉnh:Gia Lai và Kon Tum