Ninh Bình là tỉnh có nhiều lợi thế để phát triển nông nghiệp do có địa hình đa dạng từ vùng núi, đồng bằng đến ven biển, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi. Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp của tỉnh phát triển khá toàn diện theo hướng tăng năng suất, nâng cao chất lượng. Trên địa bàn đã hình thành một số vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn như: vùng sản xuất cây ăn quả, vùng sản xuất lúa chất lượng, vùng sản xuất chè, vùng sản xuất rau an toàn, rau nguyên liệu phục vụ chế biến; vùng nuôi ngao, tôm, cua thâm canh. Trong đó, có một số sản phẩm đặc trưng như: dứa quả 2 nghìn ha, sản lượng hàng năm trên 4,6 vạn tấn; thịt dê trên 500 tấn; tôm trên 1 nghìn tấn…
Đối với nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ, làng nghề, Ninh Bình có các sản phẩm độc đáo, đã nổi tiếng từ lâu như: thêu Ninh Hải, đồ gỗ Ninh Phong, cói Kim Sơn, rượu Lai Thành, gốm Bồ Bát…Các sản phẩm chủ yếu sản xuất từ nguồn nguyên liệu tại chỗ, mang đậm yếu tố truyền thống. Đây là những điều kiện thuận lợi để Ninh Bình triển khai có hiệu quả Chương trình OCOP trên địa bàn tỉnh.
Theo khảo sát của Chi cục Phát triển nông thôn (Sở Nông nghiệp & PTNT), toàn tỉnh hiện có khoảng 33 sản phẩm thế mạnh, thuộc 6 nhóm sản phẩm.
Trong đó, nhóm thực phẩm có 18 sản phẩm; nhóm đồ uống có 2 sản phẩm; nhóm thảo dược có 2 sản phẩm; nhóm vải, may mặc có 2 sản phẩm; nhóm lưu niệm, nội thất, trang trí có 5 sản phẩm; nhóm dịch vụ du lịch nông thôn bao gồm 4 hoạt động: lữ hành, lưu trú, ăn uống, bán đồ lưu niệm.
Hiện tại, đã có 13 sản phẩm đăng ký công bố chất lượng; 11 sản phẩm có đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ. Tổng doanh thu trung bình của các sản phẩm đạt 1.577 tỷ đồng/năm.
Thị trường tiêu thụ chính là thị trường nội địa. Một số sản phẩm có giá trị xuất khẩu bao gồm các sản phẩm thực phẩm đóng hộp như ngô ngọt, các loại nước quả của Công ty Cổ phần TPXK Đồng Giao; các mặt hàng thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu cói, bèo bồng, mây tre đan, hàng thêu ren; muối thảo dược và các sản phẩm khác về dược liệu.
Cũng theo khảo sát, hiện toàn tỉnh có gần 2.500 tổ chức, cá nhân đang sản xuất sản phẩm tại địa phương; tổng vốn lưu động sử dụng để sản xuất ước khoảng 228 tỷ đồng.
Đồng chí Phạm Hồng Sơn, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn cho biết: Ninh Bình có số lượng sản phẩm lớn, chủng loại đa dạng, trong đó có nhiều sản phẩm đã được người tiêu dùng công nhận như thịt dê, cơm cháy, cói mỹ nghệ…
Đặc biệt, hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh đang phát triển mạnh mẽ, đây là một lợi thế rất tốt về thị trường mà không phải tỉnh nào cũng có được. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan thì hiện nay cách thức tổ chức sản xuất của chúng ta vẫn còn yếu, phụ thuộc nông hộ là chính, sản xuất theo phong trào, ít hiểu biết về thị trường.
Đặc biệt là chưa chú trọng khai thác các lợi thế so sánh ở vùng nông thôn dựa trên các nguồn tài nguyên bản địa. Mặc dù toàn tỉnh đã có 11 sản phẩm đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ nhưng chất lượng, kiểu dáng mẫu mã, chủng loại của nhiều sản phẩm chưa đáp ứng nhu cầu thị trường. Điều này dẫn đến giá trị gia tăng thấp, hiệu quả đem lại chưa cao...
Chính vì vậy, việc triển khai Chương trình OCOP trên địa bàn sẽ là một giải pháp quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. OCOP sẽ giúp khai thác hiệu quả hơn tiềm năng, thế mạnh của mỗi địa phương, phát triển các sản phẩm có chất lượng theo đúng quy chuẩn, tăng khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng.
Đồng thời, chương trình cũng được kỳ vọng sẽ làm thay đổi tập quán sản xuất lạc hậu, khơi dậy và phát huy tinh thần tự lực, tự tin, sáng tạo khởi nghiệp trong các tầng lớp nhân dân, hướng người dân vào kinh tế thị trường, thúc đẩy phát triển sản xuất khu vực nông thôn.
Với ý nghĩa đó, ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ có Quyết định phê duyệt Chương trình, Ninh Bình đã khẩn trương khảo sát, thu thập thông tin, xây dựng Đề án của tỉnh. Ngày 12/7/2018, UBND tỉnh đã có Quyết định 922/QĐ-UBND phê duyệt đề án Mỗi vùng có sản phẩm đặc trưng, chất lượng, an toàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2018-2020 thuộc Chương trình quốc gia mỗi xã một sản phẩm.
Theo Đề án, đến hết năm 2020, tỉnh phấn đấu sẽ hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa tối thiểu 11 sản phẩm hiện có; phát triển 13 sản phẩm được chứng nhận đạt chuẩn sản phẩm OCOP; chứng nhận 3 sản phẩm OCOP đạt hạng 5 sao; phát triển 1-3 làng văn hóa du lịch đạt tiêu chuẩn 3-5 sao. Bên cạnh đó, củng cố 10-15 tổ chức kinh tế sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ du lịch nông thôn hiện có; phát triển mới khoảng 5-7 tổ chức kinh tế tham gia Chương trình OCOP…
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên, các nhóm giải pháp chính đã được nêu ra, trước tiên là tập trung cho công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức trong việc triển khai thực hiện OCOP cho cán bộ và nhân dân hiểu được tầm quan trọng, ý nghĩa của chương trình.
Bên cạnh đó, xây dựng hệ thống vận hành OCOP, thành lập hệ thống chỉ đạo điều hành, thực hiện Chương trình OCOP từ tỉnh đến cơ sở. Triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, đồng thời nghiên cứu ban hành một số chính sách mới để hỗ trợ thực hiện Chương trình OCOP.
Song song với đó là hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển, hoàn thiện công nghệ, ứng dụng công nghệ vào sản xuất và kinh doanh các sản phẩm OCOP; ưu tiên công tác phát triển, đăng ký, xác lập bảo hộ và thực thi quyền sử hữu trí tuệ liên quan đến các sản phẩm OCOP…
Trước mắt, sẽ ưu tiên phát triển các sản phẩm chủ lực hiện có như: thịt dê, cơm cháy, nem chua Yên Mạc, ngao Kim Sơn, cá rô Tổng Trường, cá Tràu tiến vua, các sản phẩm đóng hộp của Công ty Cổ phần TPXK Đồng Giao, các sản phẩm mới là gạo Tràng An, dưa lê Kim Sơn, rau quả tươi, muối thảo dược và các sản phẩm khác về dược liệu.
Cùng với đó, rà soát, đánh giá và lựa chọn đúng sản phẩm thế mạnh của các địa phương; hình thành, xây dựng hệ thống sản xuất phù hợp, kết nối nông sản với thị trường tiêu thụ…
Bài, ảnh: Hà Phương