Kỳ I: Nghề truyền thống vẫn thiếu sức hútTheo kết quả điều tra của Sở Công thương, đến nay toàn tỉnh có 69 làng nghề được UBND tỉnh công nhận, trong đó có 37 làng nghề chế biến cói, 11 làng nghề chế tác đá mỹ nghệ, 6 làng nghề mây tre đan; 4 làng nghề thêu ren, 4 làng nghề trồng đào phai; 2 làng nghề mộc, 2 làng làm bún bánh, 1 làng sản xuất gốm sứ, 1 làng sản xuất cốt chăn bông, 1 làng nghề nề.
Cũng theo báo cáo tổng hợp tình hình hoạt động làng nghề của các huyện, thành phố, thị xã thì đến hết năm 2012, tổng số hộ làm nghề trong các làng nghề là 14.369 hộ với 27.220 lao động. Giá trị sản xuất nghề năm 2012 đạt 1.407,7 tỷ đồng.
Trong những năm qua, hoạt động của các làng nghề đã thu hút và tạo việc làm cho lao động nông thôn, mang lại thu nhập ổn định, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân trong các làng nghề. Ước tính thu nhập bình quân của người lao động trong các làng nghề đạt 1,4 triệu đồng/tháng.
Đặc biệt, có một số làng nghề phát triển với quy mô ngày càng lớn, hoạt động sản xuất ở các làng nghề diễn ra sôi động, tiêu biểu như làng nghề chế tác đá mỹ nghệ xã Ninh Vân, làng nghề thêu ren Văn Lâm, xã Ninh Hải (Hoa Lư); làng nghề mộc Phúc Lộc, phường Ninh Phong (thành phố Ninh Bình); làng nghề gốm Mỹ Lộc, xã Gia Thủy (Nho Quan), một số làng nghề chế biến cói trên địa bàn huyện Kim Sơn, Yên Mô, Yên Khánh…
Bên cạnh đó, một số làng nghề nằm trên trục đường giao thông chính và tại các điểm du lịch có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển làng nghề gắn với du lịch và sản xuất các sản phẩm phục vụ du lịch như: Làng nghề thêu Văn Lâm (Khu du lịch Tam Cốc- Bích Động- Tràng An), các làng nghề chế biến cói khu vực thị trấn Phát Diệm (Kim Sơn) gắn với Khu Nhà thờ đá Phát Diệm…
Không phải bàn cãi về những đóng góp của làng nghề trong việc tăng thu nhập và giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn. Thế nhưng nghề truyền thống bấy lâu nay chỉ được coi là nghề phụ.
Ngoại trừ một số nơi, nghề truyền thống chiếm tỷ trọng kinh tế cao trong cơ cấu kinh tế như: nghề chế tác đá mỹ nghệ ở Ninh Vân, nghề mộc ở Ninh Phong, còn lại ở các vùng nông thôn hiện nay người "bám" nghề truyền thống hầu hết là những người sức khỏe yếu, tuổi cao và làm tranh thủ lúc nông nhàn.
Ông Nguyễn Văn Tuyến, Trưởng phòng Dạy nghề, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết: Qua 3 năm thực hiện đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội đã mở các lớp đào tạo ngắn hạn đối với các nghề truyền thống như: chế tác đá mỹ nghệ, mộc mỹ nghệ, đan cói, bẹ chuối, bèo bồng, thêu ren, thêu rua, thêu vi tính… Song thực tế cho thấy số người tham gia các lớp đào tạo nghề truyền thống khá đông nhưng số người theo nghề thì chỉ khoảng một nửa.
Ví dụ: nghề mộc dân dụng có 133 người được học nhưng chỉ có 66 người tự tạo việc làm còn lại, nghề mộc mỹ nghệ có 315 người có nhu cầu học nhưng chỉ có 140 người được học nghề, có 16 người được các đơn vị, doanh nghiệp tuyển dụng, 21 người tự tạo việc làm; nghề chế tác đá mỹ nghệ có 260 người học, có 18 người được các đơn vị, doanh nghiệp tuyển dụng, 32 người tự tạo việc làm; nghề đan cói, bẹ chuối, bèo bồng có 5.170 người học, có 3.102 người được các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, 92 người tự tạo việc làm; nghề thêu có 1.495 người học, có 642 người được các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, 57 người tự tạo việc làm…
Điều này dẫn đến tâm lý người lao động chán nản, bỏ cuộc. Bên cạnh đó, do tâm lý của người lao động nông thôn vẫn cho rằng hầu hết những nghề thủ công mỹ nghệ, nghề truyền thống ở địa phương là những nghề phụ dẫn đến làm được chăng hay chớ, thiếu quyết tâm và thiếu sự đầu tư nâng cao tay nghề.
Trong khi đó, hàng năm Nhà nước bỏ ra một nguồn kinh phí không nhỏ để hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn thế nhưng sau khi được học, người lao động lại không phát huy được nghề gây lãng phí kinh phí đào tạo.
Hiện nay, các làng nghề đang gặp nhiều khó khăn dẫn đến ngày công của một số nghề truyền thống như: nghề thêu, mây tre đan, chẻ tăm hương thấp, vì vậy người lao động có tay nghề cao, sức khỏe tốt ở các làng nghề cũng dần bỏ đi làm các nghề khác như: thợ xây, phụ hồ, đi giúp việc… để có thu nhập cao hơn.
Điều này xảy ra ngay cả đối với các làng nghề truyền thống đã được tỉnh cũng như các cơ quan, ban, ngành tốn nhiều công sức để xây dựng các kế hoạch bảo tồn và phát triển làng nghề.
Ông Vũ Thanh Luân, Trưởng Ban chấp hành Làng nghề Thêu Văn Lâm cho biết: Lớp trẻ ngày nay không còn miệt mài bên khung thêu như ông cha của họ ngày trước mà họ luôn năng động tìm kiếm cách lập nghiệp khác. Số người còn gắn bó với nghề thêu chỉ còn chiếm khoảng 40-50%, trong đó chủ yếu là phụ nữ ở độ tuổi từ 40-50.
Anh Vũ Tiến Hùng, chủ doanh nghiệp đồ gỗ mỹ nghệ ở làng nghề mộc Quỳnh Phong, Sơn Hà cho biết: Làng nghề hiện đang rất thiếu lao động. Mặc dù hiện nay ngày công của một thợ mộc lành nghề khoảng từ 120.000-150.000 đồng. Thế nhưng để tìm được một người thợ có tay nghề cao, gắn bó với doanh nghiệp thì khó lắm. Lý do nghề mộc đòi hỏi phải tỉ mỉ, có sự sáng tạo. Để trở thành một thợ mộc giỏi cần phải có vài năm học và làm.
Bà Đỗ Thị Giàn, Trưởng phòng Quản lý công nghiệp, Sở Công thương nhận định: Từ năm 2010, do sự tác động mạnh mẽ của cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam nên các sản phẩm của các làng nghề truyền thống như đồ mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ, hàng cói... đã được người tiêu dùng tìm đến nhiều hơn.
Thêm vào đó, nhiều năm nay có thêm sự phát triển của dịch vụ du lịch làng nghề, như du lịch làng nghề thủ công mỹ nghệ kết hợp du lịch văn hóa lịch sử, du lịch sinh thái… nên đã thu hút được nhiều lượng khách hàng đến với các điểm làng nghề truyền thống hơn. Tuy nhiên vẫn chưa thực sự có những khởi sắc.
Theo Ông Trần Trung Kiên, Phó Giám đốc Sở Công thương: Để làng nghề thực sự có "sức hút" đối với người lao động bên cạnh việc thúc đẩy các phương án thu hút lao động làng nghề, chúng ta đang rất cần khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiến tới sản xuất bền vững cả về sản lượng, chất lượng sản phẩm.
Để làm được điều đó, trước hết cần phải xem làng nghề truyền thống là một bộ phận chính trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không nên xem đây là một nghề phụ nhàn rỗi ở những vùng nông thôn.
Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả công tác truyền nghề, tránh thất truyền nghề truyền thống, cần thay đổi phương thức truyền nghề, trong đó chú trọng việc xây dựng chương trình, giáo trình giảng dạy một cách bài bản, khoa học, ứng dụng công nghệ hiện đại vào đào tạo, tăng cường thiết bị nâng cao chất lượng cơ sở dạy nghề. Đồng thời quan tâm đến đầu ra sản phẩm cho các làng nghề để người lao động yên tâm học nghề, nghệ nhân yên tâm truyền nghề.
Các địa phương có làng nghề truyền thống nên có giải pháp để giữ lao động trẻ ở lại với nghề truyền thống và khuyến khích, tạo điều kiện để các nghệ nhân, thợ cả truyền nghề cho lớp trẻ. Giữ được làng nghề giúp các xã có thể dễ dàng dịch chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp sang tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, tạo bước đột phá trong xây dựng nông thôn mới.
(*) Kỳ II: Tìm đầu ra cho sản phẩm nghề truyền thống.
Nguyễn Thơm