Do tích cực đầu tư cải tạo các lò cao, đến nay, năng lực sản xuất phân lân nung chảy của Công ty đã đạt 300.000 tấn phân lân và 150.000 tấn NPK, tăng gấp 3 lần so với công suất thời điểm ban đầu đi vào hoạt động. Bên cạnh sản phẩm truyền thống, Công ty đã cho ra đời nhiều sản phẩm mới chuyên biệt đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng như phân NPK tan nhanh thích ứng với vùng đất cao, vàn cao và trồng cây đông. Sản phẩm của Công ty đã rải khắp 56 tỉnh, thành trong cả nước và xuất khẩu sang các nước: Nhật Bản, Hàn Quốc, úc, Campuchia, Lào.
Doanh thu của Công ty năm sau cao hơn năm trước, năm 2011, doanh thu đạt 750 tỷ đồng. Cùng với đầu tư phát triển sản xuất, Công ty đã chú trọng đầu tư công tác bảo vệ môi trường trong và ngoài xưởng sản xuất, tiết kiệm nguyên liệu làm lợi do Công ty.
Từ năm 2003, để cải thiện vấn đề môi trường, Công ty đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, đầu tư hàng tỷ đồng cải tạo thiết bị, máy móc, quy trình vận hành thiết bị công nghệ để đảm bảo an toàn môi trường sản xuất và môi trường dân sinh. Công ty đầu tư lắp đặt thiết bị hòa vôi, cấp sữa vôi để xử lý khí thải, nước thải lò cao, đảm bảo tiêu chuẩn, trước khi thải ra môi trường.
Đầu tư xây lắp các thiết bị bể lắng có dung tích 2.000 m3 để lắng lọc nước thải, thu hồi chất rắn, đảm bảo môi trường trong khu vực. Với lượng nước thải phát sinh từ 2.000 - 3.700 m3/ngày, Công ty đã sử dụng 1,5 - 2 tấn vôi củ/ngày để tôi và hòa thành sữa vôi xử lý nước thải. Nước thải sau xử lý được tuần hoàn tái sử dụng một phần cho công đoạn rửa nguyên liệu, rửa bụi trong các tháp, do vậy giảm tối đa lượng nước thải ra môi trường. Bùn lắng thu hồi từ các bể lắng được vận chuyển đi tái chế, cùng với bột quặng đưa vào lò cao sản xuất ra bán thành phẩm, giúp Công ty tiết kiệm chi phí đầu vào, tránh lãng phí.
Đối với khí thải, do công nghệ sản xuất phân lân nung chảy bằng phương pháp lò cao nên trong quá trình sản xuất phải cấp gió vào lò cao để đốt than làm nung chảy quặng apatit và phụ gia khác... gây phát sinh khí thải trong sản xuất, lượng khí thải phát sinh ở lò cao chủ yếu là khí CO2, CO, H2S, SO2... Do vậy, Công ty đã đầu tư chiều sâu cải tạo hệ thống thiết bị công nghệ lò cao; cải tạo thiết bị công nghệ thu khí, lọc khí, rửa khí, đốt khí, đảm bảo nồng độ khí thải đúng quy định. Với chất thải rắn, hiện nay Công ty có lượng chất thải rắn phải thu hồi trung bình trên 100 tấn/ngày, chủ yếu là bột quặng apatit, secpentin, Công ty đã đầu tư hệ thống thu gom và xử lý tái sử dụng 100% chất thải rắn thành nguyên liệu cấp cho sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh của Công ty, thực hiện thành công chương trình tiết kiệm vật tư sản xuất đã đề ra.
Cùng với đó, Công ty đã đầu tư các thiết bị kiểm tra, giám sát về môi trường sản xuất như thiết bị đo khí, phòng đo hóa phân tích; đầu tư các hệ thống băng chuyền vận chuyển sản phẩm nhập kho, thay thế xe nâng, nhằm giảm bụi, cải thiện điều kiện môi trường làm việc trong kho, giảm lao động nặng nhọc cho công nhân… Bên cạnh đầu tư trực tiếp cho các dây chuyền sản xuất, Công ty còn đổ bê tông hàng nghìn mét vuông đường, sân bãi, mương máng thoát nước trong toàn bộ khuôn viên và xung quanh Công ty, kết hợp với trồng cây xanh bóng mát… làm giảm lượng phát sinh bụi hàng ngày trong khu vực sản xuất và đường ra vào Công ty.
Do nhận thức được sự nguy hại của vấn đề ô nhiễm môi trường nên Công ty đã chú trọng tuyên truyền, giáo dục trong đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân viên lao động, để mỗi người luôn có nhận thức đúng đắn và nâng cao trách nhiệm về công tác quản lý và thực hiện nghiêm túc vấn đề môi trường trong toàn Công ty.
Với những nỗ lực trong sản xuất và công tác bảo vệ môi trường, năm 2006, Công ty đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường chứng nhận đã hoàn thành xử lý ô nhiễm môi trường; nhiều năm liền được nhận giải "Sao vàng đất Việt"; được bình chọn thương hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao và nhiều giải thưởng khác.
Hồng Giang