
Chuyển đổi số - lựa chọn mang tính quyết định
Sau sáp nhập, toàn tỉnh có 1.390 HTX và Quỹ Tín dụng nhân dân đang hoạt động. Trong đó, HTX thuộc lĩnh vực nông nghiệp đang hoạt động là 1.077 HTX, chiếm 77,48%. Tổng số thành viên trong các HTX là 828.864 người. Các HTX nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, đóng vai trò nòng cốt trong thúc đẩy, phát triển kinh tế tập thể nói chung.
Để có thể tồn tại và phát triển bền vững thì chuyển đổi số được coi như là yêu cầu bắt buộc, cấp thiết đối với HTX nông nghiệp. Thế nhưng chuyển đổi số như nào cho đúng, cho phù hợp và hiệu quả thì HTX cần phải có những căn cơ, tính toán nhạy bén, kịp thời.
Thực tế hiện nay, bên cạnh việc chú trọng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thì dựa trên quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, nhiều HTX nông nghiệp đã nhanh chóng chuyển đổi mô hình sản xuất, đẩy mạnh sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng mạnh mẽ tiến bộ khoa học kỹ thuật. Tiền đề của chuyển đổi số bước đầu được ghi nhận chính là quá trình sử dụng các máy móc, trang thiết bị hiện đại để tối ưu hoá các công đoạn, quy trình sản xuất.
HTX nông nghiệp Mai Sơn (phường Yên Thắng) có thế mạnh về sản xuất rau màu. Mỗi vụ đông, HTX có thể sản xuất từ 60 - 80ha với đa dạng các loại như: cà chua, dưa chuột, dưa vàng, su hào, súp lơ, cải bắp, rau ngắn ngày các loại,… Qua quá trình tuyên truyền, vận động, việc chuyển đổi số trong quy trình sản xuất được các thành viên đẩy mạnh, chủ yếu là việc lắp đặt hệ thống tưới tự động, vừa tiết kiệm thời gian, giảm công lao động, vừa nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Theo ước tính của HTX, giá trị sản xuất một số cây đặc thù như cà chua, dưa chuột có thể đạt từ 150 - 220 triệu đồng/ha. Nếu được sản xuất trong nhà màng, hiệu quả kinh tế còn cao hơn rất nhiều.

Ông Tống Viết Vinh là thành viên tiêu biểu của HTX nông nghiệp Mai Sơn đã tiên phong trong sản xuất nông nghiệp xanh, nông nghiệp sạch. Từ những ngày đầu khởi nghiệp, ông luôn trăn trở tìm hướng đi phù hợp để phát triển kinh tế gia đình. Với những nỗ lực không ngừng trong quá trình học hỏi, phát triển, nâng cao trình độ, năng lực sản xuất, ông đã thành công xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hoá với tổng diện tích 5ha. Trong đó, có 5000m2 nhà màng tiến hành sản xuất hữu cơ, ứng dụng hệ thống tưới tự động, có thể điều chỉnh ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm cho cây trồng thông qua các thiết bị hiện đại. Mỗi năm gia đình ông cung ứng ra ngoài thị trường hàng chục tấn rau củ các loại. Sản phẩm chất lượng, được tiêu thụ rộng khắp các tỉnh, thành trong cả nước, mang về lợi nhuận khoảng 1,5 tỷ đồng/năm. Hiện ông đang tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 10 lao động với mức thu nhập từ 6-8 triệu đồng/tháng.

Ông Tống Viết Vinh chia sẻ: “Đối với tôi, làm nông nghiệp muốn đi đường dài phải xác định rõ mục tiêu từ đầu và tìm cách để hiện thực hoá. Chuyển đổi số trong sản xuất là một trong những bước đi mang tính quyết định. Hiện tôi vẫn sẽ nỗ lực trong sử dụng công nghệ số nhằm tối ưu hoá quy trình sản xuất, giảm sức lao động của con người, hướng tới nông nghiệp hiện đại, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp chất lượng”.
Trong thời đại công nghệ số, để tránh tụt hậu, nhiều HTX nông nghiệp đã coi chuyển đổi số như “chìa khoá” để tăng sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động, đảm bảo thu nhập cho thành viên và người lao động. Chuyển đổi số trong các HTX nông nghiệp phần lớn tập trung vào ứng dụng công nghệ IOT và cảm biến trong theo dõi các dữ liệu như: độ ẩm, nhiệt độ, độ PH, nồng độ oxy,…; tự động hoá trong điều chỉnh các thiết bị tưới, cho ăn, sục khí oxy,…; xây dựng hệ thống nhà lưới, nhà màng trong trồng trọt; nuôi thuỷ sản theo hướng công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao; dán tem truy xuất nguồn gốc; đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử, mở rộng thị trường.
Ông Đinh Văn Giang, Giám đốc HTX Dịch vụ Nông nghiệp thủy sản Kim Trung (xã Kim Đông) cho biết: “Qua quá trình khảo sát thực tế, Liên minh HTX tỉnh đã tiến hành hỗ trợ HTX lắp đặt hệ thống IOT trong nuôi trồng thủy sản. Khi đưa vào sử dụng, hệ thống cho phép theo dõi các thông số môi trường như: nhiệt độ, pH, oxy hòa tan, độ mặn,… và tự động hóa các thiết bị như: sục khí, cấp nước, cho ăn thông qua việc cài đặt phần mềm trên điện thoại thông minh có kết nối internet. Từ đó để cảnh báo sớm, điều chỉnh kịp thời, tối ưu hóa điều kiện nuôi, tăng năng suất và giảm rủi ro dịch bệnh. Hiệu quả nuôi trồng thủy sản tăng lên rõ rệt.”

Biến những khó khăn thành động lực
Đa phần khó khăn của các HTX nông nghiệp gặp phải đó là tài chính hạn hẹp, thiếu nguồn nhân lực chất lượng, hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ, thiếu chiến lược rõ ràng trong vận hành, chuyển đổi số,… khiến nhiều HTX chưa thể tiếp cận các công nghệ số một cách hiệu quả.
Ông Tô Quốc Việt, Phó Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh cho biết: “Việc chuyển đổi số đối với các HTX nông nghiệp đặt ra nhiều khó khăn, thách thức bởi một số nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, trước nhu cầu cấp thiết của việc chuyển đổi số trong các HTX nông nghiệp hiện nay, thời gian qua, Liên minh HTX tỉnh đã thường xuyên mở những lớp tập huấn nâng cao năng lực quản lý, ứng dụng chuyển đổi số cho các HTX; tập huấn sử dụng phần mềm kế toán, kỹ năng livetream bán hàng cho các HTX có sản phẩm đạt chất lượng; hướng dẫn các
HTX đăng kí bán hàng trên các sàn thương mại điện tử; tạo điều kiện để các HTX tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm,… Chúng tôi hi vọng rằng, với những giải pháp cụ thể, việc chuyển đổi số tại các HTX nông nghiệp nói riêng và HTX nói chung sẽ ngày càng đi vào chiều sâu, đem lại hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững cho các HTX”.
Ứng dụng công nghệ số giúp các HTX nông nghiệp có điều kiện sản xuất theo quy mô hàng hoá, tập trung, quản lý tốt hơn năng suất, chất lượng sản phẩm, hình thành nên các mô hình sản xuất an toàn, hữu cơ, VietGap,… Các mô hình HTX sản xuất theo chuỗi giá trị với nhiều trang thiết bị phục vụ cho việc sơ chế, chế biến, đóng gói sản phẩm,… ngày càng được đầu tư bài bản, đồng bộ, cải thiện năng suất, chất lượng, mẫu mã sản phẩm, cho giá trị vượt trội về kinh tế. Công nghệ số trở thành động lực giúp các HTX nông nghiệp dần thay đổi để thích nghi với cơ chế thị trường.
Hiện trên địa bàn tỉnh, số lượng HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là 184 HTX (chiếm 17,08% tổng số HTX nông nghiệp). 167 HTX hoạt động liên kết chuỗi giá trị với các mức độ khác nhau, tăng gấp 2 lần so với năm 2020. 18 HTX được cấp giấy chứng nhận theo tiêu chuẩn VietGap. Nhiều HTX nông nghiệp có các sản phẩm chủ lực, được công nhận là sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên, được thị trường đón nhận. Hiện với sự giúp đỡ của các ngành, các cấp, đặc biệt là phía Liên minh HTX tỉnh, nhiều HTX nông nghiệp đã đưa các sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử như: Poosmax, SaiGoncoop, Go, Vinmax, VCAmax… Đây là minh chứng rõ nét cho sự chuyển đổi số mạnh mẽ, xây dựng các mô hình HTX kiểu mới, đẩy mạnh sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với nhu cầu thị trường.

Dư địa để các HTX nông nghiệp phát triển là rất lớn. Tuy nhiên, để có thể đi đúng hướng và phát triển bền vững trong tương lai, cần sự quan tâm, hỗ trợ, định hướng của các ngành, các cấp liên quan nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc mà các HTX đang gặp phải.
Với việc không ngừng đổi mới, sáng tạo trong quản lý, vận hành, sản xuất, chuyển đổi số tiếp tục được coi như một đòn bẩy giúp các HTX nông nghiệp mạnh dạn “phá kén”, mở hướng phát triển mới đầy triển vọng. Đặc biệt, đây cũng là cơ hội để đội ngũ cán bộ HTX, thành viên, người lao động thay đổi tư duy, nhận thức, nâng cao trình độ, năng lực; tích cực tiếp cận công nghệ số, mở rộng thị trường, tạo doanh thu, lợi nhuận lớn thông qua quá trình sản xuất, kinh doanh. Từ đó, thúc đẩy kinh tế tập thể ngày một phát triển, đồng thời góp phần xây dựng nền nông nghiệp xanh, hiện đại, bền vững.













