
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt tay vào xây dựng bộ máy Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước kiểu mới phải là Nhà nước lấy dân làm gốc, dựa trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Người tuyên bố “Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết, và tập hợp nhân tài không đảng phái”(2), và trong thực tế Hồ Chí Minh đã mời, thu nạp nhiều nhân sỹ, trí thức lớn, kể cả quan lại cấp cao của chế độ cũ tham gia Chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng “Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng công-nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”(3). Hiến pháp năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh là Trưởng ban chỉ đạo soạn thảo, sửa đổi và xác định “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội…”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần tư tưởng yêu nước, thương dân, Người tiếp thu các nguồn tư tưởng khác nhau kể cả tư tưởng dân chủ phương Đông lẫn phương Tây, tư tưởng Nho giáo và truyền thống dân tộc Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu tiếp xúc với nền dân chủ tư sản, Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương trong bài “Việt Nam yêu cầu ca” năm 1922, có 8 điều thì điều thứ 7 là:
“Bảy xin Hiến pháp ban hành.
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”(4)
Sau khi nước nhà giành độc lập, Người chủ trương phải xây dựng Hiến pháp, Người đứng ra chủ trì soạn thảo bản Hiến pháp 1946 và ban hành nhiều Sắc lệnh để thi hành. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một Nhà nước dân chủ và pháp quyền tất yếu phải có một cơ cấu tổ chức hợp lý, cơ chế hoạt động thích ứng, khoa học về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, luật học…, quyền lực nhà nước là thống nhất, rõ ràng, rành mạch giữa ba quyền (lập pháp, hành pháp và tư pháp).
Theo Hiến pháp 1946, “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” và là cơ quan lập pháp đặt ra pháp luật. Quyền lực tối cao nằm trong tay Nghị viện; nhưng khi Nghị viện không họp, Ban Thường vụ có quyền biểu quyết những dự án, Sắc luật của Chính phủ. Những Sắc luật đó phải đem trình Nghị viện vào phiên họp gần nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ”.
Hiến pháp 1946 quy định “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà”. Chính phủ gồm có Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước và Nội các; Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng, có thể có Phó Thủ tướng.
Chính quyền địa phương theo tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Hiến pháp 1946, bằng cách đề ra thiết chế Hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh, thành phố, thị xã, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã cử ra Uỷ ban hành chính. Cấp Bộ và cấp huyện không có Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân quyết nghị về những vấn đề thuộc địa phương mình, những quyết nghị ấy không được trái với chỉ thị cấp trên.
Đến Hiến pháp 1959, chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã đều có Hội đồng nhân dân, được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương, quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương.
Hiến pháp 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo soạn thảo, thông qua và có một số thay đổi: “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà”, là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội lại có quyền ban hành Pháp lệnh. Chủ tịch nước không còn là người đứng đầu Chính phủ nhưng khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ toạ phiên họp của Hội đồng Chính phủ”. Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Hệ thống cơ quan tư pháp theo Hiến pháp 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng mạnh dạn nguyên tắc tổ chức của Nhà nước tư sản: “Trong khi xét xử, các thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật; các cơ quan khác không được can thiệp”. Tư tưởng dân chủ trong tổ chức tư pháp, phân công rành mạch với hai quyền lập pháp và hành pháp đó được trực tiếp xác nhận trong bản Hiến pháp 1959: “Khi xét xử, Toà án có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Qua đó thấy được tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức bộ máy Nhà nước có sự phân công rõ ràng, rành mạch giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước thì tổ chức bộ máy Nhà nước là phải gần dân, sát dân, dựa vào dân, phục vụ dân,“các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là đầy tớ trung thành của dân”(5). Nhà nước kiểu mới phải liêm khiết, trong sạch. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Người đã chỉ ra các bệnh của một Đảng cầm quyền và của những cán bộ, đảng viên có chức có quyền trong bộ máy nhà nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Bệnh quan liêu hết sức nguy hiểm, những người nào, nhất là lãnh đạo mà mắc phải bệnh này thì “có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững”(6). Nguy hiểm hơn, bệnh quan liêu “đã ấp ủ dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí”; có nạn tham ô, lãng phí là vì có bệnh quan liêu; nơi nào bệnh quan liêu càng nặng thì nơi đó càng nhiều lãng phí, tham ô. Bệnh quan liêu tiếp tay cho những cán bộ kém, những người xấu thoả sức đục khoét ngân khố, tài sản quốc gia. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và nhân dân. Người có nhiều bài viết, lời nói, lời nhắn nhủ nhằm chấn chỉnh đội ngũ cán bộ, đảng viên, chỉ ra chủ nghĩa quan liêu và cách phòng, chống chủ nghĩa quan liêu.
Đối với chính quyền địa phương, ngay từ khi lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan điểm nhất quán thể hiện trong việc chỉ đạo xây dựng bộ máy Nhà nước cũng như chính quyền địa phương trong bản Hiến pháp 1946 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp năm 1962. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền địa phương phải gần dân, phục vụ dân, có cơ cấu tổ chức hợp lý, có cơ chế hoạt động thích ứng, khoa học về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, luật học… Chính vì vậy, chính quyền địa phương được xây dựng để đại diện cho nhân dân địa phương và giải quyết các vấn đề ở địa phương.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước vào việc xây dựng chính quyền địa phương hai cấp hiện nay
Khi bàn về tinh, gọn bộ máy hệ thống chính trị, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “…tổ chức còn kềnh càng, thừa người, phải sắp xếp cho gọn gàng, hợp lý, mọi người đều có công việc thiết thực, những người thừa phải đưa đi chỗ thiếu, những người ở lại phải thi đua nâng cao năng suất của mình. Thế là tinh, gọn, tinh là năng suất lên cao, làm cho mau, cho tốt, giản là vừa phải, không kềnh càng, tránh hình thức”(7). Chính vì vậy, Người sớm soạn thảo bản Hiến pháp 1959 nhằm tinh gọn bộ máy nhà nước khi mà chính quyền địa phương bốn cấp (cấp Bộ, tỉnh, huyện, xã), Người đã chỉ đạo xây dựng chính quyền địa phương còn ba cấp (giảm một cấp).
Trên tinh thần đó, Đảng ta nhận thức rõ bộ máy nhà nước hiện quá cồng kềnh, vẫn còn nhiều tầng, nhiều nấc, Đảng ta tiếp tục đổi mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, ngày 25/10/2017 ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIIIvề Đề án sắp xếp, sáp nhập, hợp nhất đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã mới nhất; Kết luận số 127-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư ngày 28/2/2025 về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; Nghị quyết số 203/2025/QH15 được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2025 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Nghị quyết số 202/2025/QH15 của Quốc hội về sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, có hiệu lực từ ngày 12/6/2025 và 34 nghị quyết khác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã năm 2025, đến nay cơ bản chúng ta đã xây dựng chính quyền địa phương hai cấp, giảm bớt nhiều thủ tục hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được tinh giản khá nhiều.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương bảo đảm nguyên tắc “Chính quyền của dân, do dân, vì dân”, tổ chức và hoạt động của chính quyền hai cấp đều phải hướng đến phục vụ lợi ích nhân dân, không thể xa rời nhân dân, không phục vụ nhân dân. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 quy định rõ ràng, chặt chẽ về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và cấp xã thực thi đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn bảo đảm“Chính quyền của dân, do dân, vì dân”, các văn bản quy phạm pháp luật ở Trung ương ngày càng quy định rõ ràng, chặt chẽ hơn về trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân thể hiện trong tiếp xúc cử tri theo định kỳ, chất vấn và trả lời chất vấn…, trách nhiệm của Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp xã trong việc quản lý mọi mặt ở địa phương, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kê khai tài sản, thu nhập…
Cùng với việc xây dựng“Chính quyền của dân, do dân, vì dân”, Nhà nước ta tiếp tục thực hiện cải cách hành chính và chuyển đổi số, đưa công nghệ thông tin vào phục vụ nhằm giải quyết tốt các công việc của cơ quan nhà nước ở địa phương, thực hiện mô hình chính quyền đô thị gọn nhẹ, nông thôn kiểu mẫu năng động, hiệu quả, tránh chồng chéo, trùng lặp. Song song với việc chuyển đổi chính quyền địa phương thành hai cấp, các cơ quan nhà nước ở Trung ương phân công, phân cấp rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp tỉnh và cấp xã, tăng cường trách nhiệm giải trình đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước.
Việc công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước vẫn được khẳng định có vai trò then chốt trong việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, là vũ khí chống “giặc nội xâm” của các cơ quan nhà nước. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 và các văn bản quy phạm pháp luật đã quy định rõ ràng về công khai, minh bạch đối với cán bộ, công chức của chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý. Các hoạt động họp dân, lấy ý kiến của dân, góp ý phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, báo chí và nhân dân dựa trên phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong quá trình hoạch định chính sách địa phương, thông qua quy chế dân chủ cơ quan, xã, phường, các hoạt động phản ánh trực tuyến, tiếp xúc cử tri, đối thoại định kỳ giữa chính quyền địa phương với nhân dân dần dần được củng cố sâu rộng hơn. Quốc hội đã ban hành Luật Thanh tra năm 2025 cho phù hợp với chính quyền hai cấp ở địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiên quyết xử lý tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, xa dân đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(8), chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn luôn chăm lo rèn luyện và đào tạo cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ sở, đó là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước. Ngoài hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên ở các Bộ, ngành Trung ương, còn có hệ thống trường đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương.
Ngoài Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025, Nghị định số 101/2017/NĐ-CP của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức vẫn được áp dụng, Nghị định số 171/2025/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025 được bổ sung về đào tạo, bồi dưỡng công chức để bảo đảm đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ sát với các công việc ở địa phương. Các cơ quan nhà nước ở địa phương tiếp tục đổi mới công tác đánh giá, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức thông qua thực hiện Nghị định 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 của Chính phủ.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 không ngoài mục đích phát triển kinh tế-xã hội, mọi quyết định quản lý nhà nước phải đưa đến lợi ích thiết thực cho cơ quan nhà nước và người dân. Chính quyền hai cấp chủ động trong mọi hoạt động quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, thu hút đầu tư, cải thiện đời sống nhân dân. Theo tinh thần Hồ Chí Minh, việc gì địa phương làm được thì giao cho địa phương làm, Trung ương chỉ giữ việc lớn, thông qua việc phân cấp, phân quyền. Đảng, Nhà nước ta chủ động giao cho chính quyền địa phương giải quyết phần lớn các công việc ở địa phương, tăng cường tính chủ động, sáng tạo cho địa phương, cơ sở, hoạt động nhanh, nhạy trong mọi sự biến động của chính trị, kinh tế-xã hội ở địa phương, cơ sở, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, phát huy dân chủ, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước.
Để phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoạt động của chính quyền địa phương phải nhanh, nhạy, có hiệu quả, giảm bớt các khâu trung gian thì phải đưa hệ thống mạng điện tử vào phục vụ hoạt động của các cơ quan. Hiện nay, các cơ quan đang đẩy mạnh chuyển đổi số, dịch vụ công trực tuyến, xây dựng đô thị thông minh, nông thôn mới kiểu mẫu là phát triển nông thôn theo hướng hiện đại, kết hợp đô thị hóa xanh với công nghệ số và các giá trị bản địa thể hiện tinh thần “chính quyền phục vụ”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước có nội dung vô cùng rộng lớn, hơn nửa thế kỷ nay vẫn còn nguyên giá trị, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước mang tính nguyên tắc, đó chính là cơ sở lý luận soi sáng cho sự nghiệp đổi mới của Đảng. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng chính quyền địa phương hai cấp hiện nay là tập trung vào xây dựng chính quyền “vì dân”, nâng cao năng lực, đạo đức, phẩm chất của cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm bộ máy nhà nước gọn nhẹ, đồng thời tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với dân, nâng cao đời sống nhân dân.
-------------------------
Sửa đổi lối làm việc; Hồ Chí Minh Toàn tập; Tập 5; NXB Chính trị quốc gia Sự thật; Hà Nội 2000
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh Toàn tập; Tập 9; NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2011
2. Hồ Chí Minh Toàn tập; Tập 10; NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2011
3. Hồ Chí Minh Toàn tập; Tập 11; NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2011
4. Hồ Chí Minh Toàn tập; Tập 12; NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2011
5. Tạp chí Cộng sản số 523 (27-5-2024)
6. Tạp chí Cộng sản số 912 (10-2018)
7. Tạp chí Cộng sản số 913 (11-2018)








