
1. Vai trò, chức năng của văn hóa được đề cao chưa từng thấy
Trên báo Cứu quốc số ra ngày 8 - 10 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”. Ngày 24 - 11 - 1946, trong bối cảnh nước sôi lửa bỏng, vô cùng khẩn trương chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến, nhưng xét thấy vai trò quan trọng, khai mở của văn hóa trong phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đến dự Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất; tại đây Người đã nêu lên một quan điểm nổi tiếng: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vai trò của văn hóa, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, trên cơ sở nhận thức đúng đắn về các quy luật vận động và phát triển của văn hóa, Đảng đã không ngừng phát triển tư duy lý luận về văn hóa, mà cốt lõi là đã nhìn nhận đúng và phát huy tối đa vai trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ Nghị quyết 05-NQ/TW ngày 28 - 11 - 1987 của Bộ Chính trị về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, từ Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (2014) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đến đường lối văn hóa được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, vai trò của văn hóa đã được định vị ngày càng rõ ràng, theo chiều vector đi lên. Tuy nhiên, phải đến Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, vai trò của văn hóa mới được đề cập một cách toàn diện nhất, thuyết phục nhất.
Nghị quyết 05-NQ/TW của Bộ Chính trị cách đây gần 40 năm đã nhìn nhận một cách đột phá về vai trò của văn hóa, xem đó là trình độ phát triển của một nước, một thời đại, là sức mạnh tinh thần của dân tộc: “Văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hóa… làm giàu đẹp thêm cho cuộc sống con người; là sức mạnh tinh thần của dân tộc; là một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa, là một động lực mạnh mẽ, đồng thời là một mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[1]. Và cũng trong quan điểm này, văn hóa còn được xác định là “động lực mạnh mẽ”, “mục tiêu lớn” của phát triển.
Phải đặt vào bối cảnh đất nước chưa đầy 1 năm sau Đại hội VI của Đảng, cả nước dồn sức tập trung thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn để từng bước khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân khi ấy còn rất nhiều khó khăn, nhiều vấn đề nổi cộm, cấp thiết đang đặt ra, mới thấy ý nghĩa to lớn của những quan điểm có tính đột phá đó về vai trò quan trọng của văn hóa. Trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Đảng xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI còn tiến xa hơn một bước khi đặt văn hóa “ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Tại Đại hội XIII của Đảng (2021), vai trò của văn hóa, đặc biệt là con người Việt Nam với “tài năng, trí tuệ, phẩm chất” được xem là “sức mạnh nội sinh” không chỉ trong phát triển đất nước, mà còn trong cả sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, là “trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”[2].
Trong Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Đảng tiếp tục xác định văn hóa là một trong những trụ cột, là nguồn lực nội sinh, là động lực để phát triển nhanh và bền vững đất nước. Tuy nhiên, phát triển văn hóa, con người giờ đây không chỉ là “nền tảng tinh thần”, mà là “nền tảng” nói chung để mọi thứ trên đó tồn tại và phát triển. Nếu chỉ giữ vai trò “nền tảng tinh thần” đôi khi trên thực tế văn hóa vẫn bị xem nhẹ, bởi không phải đã hết quan niệm “đói” tinh thần chưa chết ngay được. Dễ nhìn ra nhất là việc đầu tư cho văn hóa mà trong Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV, Đảng đã chỉ ra: “Đầu tư cho văn hóa còn thấp và dàn trải”. “Phát triển văn hóa, con người là nền tảng” để phát triển đất nước, nên chủ trương của Đảng cũng có những điểm mới, vừa trúng, vừa đúng, tiếp thu cách làm hay của ông cha ta xưa ở những thời điểm “vua sáng - tôi hiền”, đáp ứng không chỉ yêu cầu cấp bách của đất nước, mà còn phù hợp với xu thế của thế giới hiện nay, đó là “Đề cao, khuyến khích vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân và những người làm công tác văn hóa”. Một trong những thành tố quan trọng của văn hóa là khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đối số quốc gia cũng được xác định có vai trò đột phá để phát triển lực lượng sản xuất mới.
Một thời gian dài, chúng ta chủ yếu đề cập đến các chức năng xã hội của văn hóa, ít đề cập đến những chức năng khác. Những năm gần đây, các chức năng khác của văn hóa được chú ý hơn, trong đó có chức năng kinh tế, chức năng điều tiết xã hội. Thực tế cho thấy chúng ta đang lãng phí nguồn tài nguyên văn hóa rất lớn của đất nước, rất nhiều trong số hàng chục nghìn di tích đã được xếp hạng chưa đem lại lợi ích kinh tế đáng kể. Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng xác định “Bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế di sản”. Đồng thời với việc phát triển “kinh tế di sản”, phải “phát triển mạnh công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa” - lĩnh vực mà Việt Nam có tiềm năng vượt trội không chỉ trong khu vực mà còn trên thế giới, nhưng chưa phát huy được lợi thế và hiệu quả như mong đợi.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của UNESCO, Đảng xác định văn hóa không chỉ có chức năng điều tiết xã hội, không chỉ là một “kênh”, mà là một “hệ điều tiết phát triển đất nước”. Theo logic, muốn đột phá trong thực tiễn, trước hết phải đột phá trong tư duy. Vì vậy, đường lối phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình, vai trò, chức năng của sức mạnh văn hóa, con người Việt Nam đã được đề lên cao nhất từ trước đến nay là hoàn toàn hợp quy luật phát triển, là tất yếu khách quan.

2. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ trên nền tảng các hệ giá trị cốt lõi
Các giá trị thường có tính ổn định cao nhưng không nhất thành bất biến. Lịch sử đã chứng minh mỗi dân tộc (trên phương diện tộc người hay phương diện quốc gia) trong tiến trình lịch sử, nếu gây dựng, hun đúc nên được “hồn cốt của Dân tộc” (chữ của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng) là các giá trị tốt đẹp, nhất là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái, khoan dung… thì cũng đồng nghĩa với việc đã tạo ra nguồn sức mạnh to lớn để kiên cường chiến thắng thiên tai, thù trong giặc ngoài, trường tồn dân tộc. Thật ra, từ lâu, trong nhiều văn kiện của Đảng từ khi thành lập đến nay và trong nhiều bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Bác Hồ đã đề cập đến nhiều nội dung các giá trị của dân tộc, của văn hóa, đặc biệt là chuẩn mực con người mới xã hội chủ nghĩa.
Đơn cử một ví dụ, là người Việt Nam, chắc rất nhiều người thuộc lòng câu nói sau đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội II của Đảng (1951): “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[3]. Đại hội XIII của Đảng đã đề cập đến hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập đến hệ giá trị quốc gia bao gồm “Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”; hệ giá trị văn hóa bao gồm “Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học”; hệ giá trị gia đình bao gồm “Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh”; chuẩn mực con người Việt Nam bao gồm “Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo”[4].
Trong Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV, Đảng nhấn mạnh cần “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam”. Đây chính là sự cụ thể hóa đường lối “Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa, con người Việt Nam”. Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một chỉnh thể hoàn chỉnh, giống như hai mặt của một vấn đề, phải bao gồm các tính chất, các đặc trưng bản chất, chủ thể sáng tạo, phải là dòng chảy lịch sử kết nối quá khứ với hiện tại và tương lai; cả ở tầm vĩ mô và vi mô; tất cả những điều đó chỉ có thể tìm thấy trong các hệ giá trị nêu trên và không thể tách rời một cách máy móc. Nếu không phát triển đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam (mà là con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chứ không phải con người chung chung) thì nền văn hóa Việt Nam sẽ mất gốc, mất phương hướng, sẽ bị hòa tan, sức đề kháng sẽ không còn và hệ lụy thì có thể dự báo được, thậm chí dân tộc diệt vong, tên quốc gia sẽ bị xóa sổ trên bản đồ thế giới.
3. Đẩy mạnh phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa; xây dựng môi trường văn hóa, đời sống, lối sống lành mạnh, văn minh gắn với xây dựng, hoàn thiện con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa; trong tổ chức các hoạt động văn hóa, lấy địa bàn cơ sở, người dân làm trung tâm
Văn hóa vốn có đặc trưng đa dạng, bao gồm nhiều thành tố, nhiều lĩnh vực, nhiều chủ thể tham gia, có mối liên hệ chặt chẽ cả bên trong lẫn bên ngoài; do đó không thể chỉ tập trung phát triển một vài lĩnh vực nào đó. Chủ trương “phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa” sẽ huy động được tối đa các nguồn lực, khai thác tiềm năng, thế mạnh, tạo nên sự phát triển đa dạng văn hóa, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và phong phú của nhân dân, thu hẹp dần khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, các giai tầng xã hội. Tất nhiên, phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa không đồng nghĩa với việc cào bằng, dàn trải, mà vẫn phải có trọng tâm, trọng điểm, có những nhiệm vụ, giải pháp được ưu tiên, xuất phát từ chính đòi hỏi của thực tiễn trước mắt cũng như về lâu dài.
Nhiệm vụ trọng tâm số một vẫn là xây dựng và phát triển toàn diện con người với các phẩm chất chủ yếu như “đạo đức, trí tuệ, ý thức dân tộc, trách nhiệm công dân, năng lực sáng tạo, thẩm mỹ, thể lực, kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp” mới có thể là chủ nhân của cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo định hướng mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhiều lần đề cập đến. Trong số những phẩm chất này, sau “đạo đức” thì “trí tuệ, ý thức dân tộc, trách nhiệm công dân” được đề cao.
Đấy là những đức tính cần đặt lên hàng đầu trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với những công nghệ hiện đại chưa từng có, chuyển đổi số là yêu cầu sống còn, mới có thể “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”, “phát huy tinh thần cống hiến của con người Việt Nam”. Muốn thế, về phương diện cá nhân, con người không tự thân có đầy đủ mọi phẩm chất mà phải được rèn luyện để có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, vừa dân tộc, vừa hiện đại, là những công dân số, công dân toàn cầu; còn về phương diện Nhà nước, phải có cơ chế, chính sách đột phá thu hút, trọng dụng nhân tài, xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, tạo cơ hội để nhân tài phát huy được khả năng của mình, không để chảy máu chất xám; phải bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe cho nhân dân.
Vì vậy, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22-8-2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 9-9-2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân mở ra không gian rộng lớn, định vị lại toàn bộ những vấn đề căn cốt của những lĩnh vực chủ yếu liên quan trực tiếp đến việc chăm lo phát triển toàn diện con người, đến tương lai đất nước, vị thế quốc gia, đến mục tiêu cần đạt được vào năm 2045.
Một điểm rất quan trọng mà Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV đề cập trong nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện con người là cần “xây dựng, hoàn thiện con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, tức là con người gắn kết chặt chẽ phẩm chất dân tộc (Việt Nam) với phẩm chất tiên tiến của thời đại (xã hội chủ nghĩa), chứ không phải con người chung chung. Để phát huy tối đa nhân tố con người trong kỷ nguyên mới, các chủ thể quan trọng trong sáng tạo văn hóa được mở rộng, không chỉ là đội ngũ trí thức, mà còn có những tầng lớp khác. Đảng nhấn mạnh vai trò tiên phong của các chủ thể này: “đề cao, khuyến khích vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân và những người làm công tác văn hóa”.
Về mối quan hệ giữa xây dựng, hoàn thiện con người với xây dựng môi trường văn hóa, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII mới chỉ đặt ra nhiệm vụ “xây dựng môi trường văn hóa”, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đề cập sâu hơn, nhấn mạnh yếu tố “lành mạnh”: “xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”; Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV xác định “xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh với việc xây dựng, hoàn thiện con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đó là một chủ trương nhiều điểm mới, trong đó không thể tách rời nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện con người với nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa. Ông cha ta đã đúc kết bài học giản dị và sâu sắc có thể liên hệ với vấn đề chúng ta đề cập: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV nêu rõ môi trường văn hóa ở đây phải “lành mạnh, văn minh”, nghĩa là không bị vẩn đục, ô nhiễm bởi cái xấu, cái ác, cái phi văn hóa, phản văn hóa, là môi trường của nền văn hóa phát triển cao.
Về công nghệ số, chuyển đổi số, suy đến cùng, hiểu theo nghĩa rộng, công nghệ số, chuyển đổi số không chỉ là khoa học, công nghệ, cách vận hành, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững, mà còn là văn hóa - văn hóa số. Do đó, “đẩy mạnh chuyển đổi số… phát triển và quản lý có hiệu quả thị trường sản phẩm, dịch vụ văn hóa số” tiếp tục là nhiệm vụ có tính thời sự, vừa là thời cơ vàng, vừa là thách thức lớn. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 71-NQ/TW, Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nêu trên, chắc chắn sẽ giải quyết được vấn đề này.
Về công nghiệp văn hóa, Đại hội XIII của Đảng chủ trương “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa”[5]. Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV chủ trương “Phát triển mạnh công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa”. Việt Nam có cả một kho “tài nguyên văn hóa” khổng lồ, quý giá hơn vàng, rất nhiều lợi thế, dân số đông và trẻ, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, di sản thiên nhiên thế giới, danh lam thắng cảnh phong phú, đặc sắc thuộc nhóm hàng đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng, thế giới nói chung; công nghệ thông tin phát triển rất nhanh, hiện tại đã có 3 thành phố sáng tạo của UNESCO. Lợi thế sẽ mất đi, tiềm năng chưa phát huy được và lại tụt hậu nếu chần chừ và manh mún, vì vậy rất cần một chiến lược mới mang tính đột phá để phát triển mạnh công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa không chỉ nhằm mục đích kinh tế, mà còn nhằm mục đích xã hội, quảng bá hình ảnh và vị thế quốc gia Việt Nam ra thế giới.
Đối với văn hóa chính trị, đây là lúc không dừng lại ở việc “xây dựng văn hóa chính trị” như Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đề cập, mà là “Chú trọng phát triển văn hóa chính trị”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đại hội XIII của Đảng khi đề cập đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, không chỉ yêu cầu tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, mà còn về đạo đức.
Từ phương diện lý luận, đặc biệt là từ thực trạng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị những năm qua, bước vào kỷ nguyên mới, văn hóa chính trị, mà nòng cốt là văn hóa trong Đảng, văn hóa công vụ phải có vai trò mới, lan tỏa, dẫn dắt các thành tố khác của văn hóa trong đời sống xã hội. Văn hóa chính trị đòi hỏi “khuôn vàng thước ngọc” hơn bất cứ một thành tố văn hóa nào khác, phải thấm vào trong suy nghĩ, hành động của mỗi cá nhân, vào những quyết sách của tổ chức trong hệ thống chính trị, tất cả vì tương lai dân tộc, hạnh phúc của nhân dân theo lý tưởng, mục tiêu mà Đảng đề ra.
Từ Đại hội V của Đảng (1982), Đảng đã đặc biệt chú ý nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Giờ đây, thực hiện chính quyền địa phương hai cấp, chủ trương của Đảng “xây dựng các thiết chế và tổ chức các hoạt động văn hóa theo hướng thiết thực, linh hoạt, lấy địa bàn cơ sở, người dân là trung tâm” có nhiều điểm mới, rất hợp lòng dân và cũng là một cách để xây dựng thế trận lòng dân. Mặc dù Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” đã thu được những kết quả rất quan trọng, nhưng trên thực tế, cơ hội tiếp cận và mức độ hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền, các tầng lớp nhân dân còn chênh lệch lớn.
Nhiều nhiệm kỳ đại hội, Đảng đều đưa ra những chủ trương đúng đắn, Nhà nước cũng đã thể chế hóa những chủ trương đó thành hệ thống pháp luật, chính sách và việc tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách đó đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Tuy nhiên, chênh lệch trong phát triển văn hóa, giáo dục, y tế… giữa các vùng, miền, giữa các tầng lớp nhân dân vẫn chậm được thu hẹp. Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm nhiều lần nhấn mạnh rằng “không để ai bị bỏ lại phía sau”, nên trong hoạt động văn hóa, lấy địa bàn cơ sở, người dân là trung tâm không chỉ là chủ trương, mà còn là mục đích “lấy dân làm gốc”, hướng tới việc nhanh chóng tháo gỡ điểm nghẽn về cơ chế, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún, hiệu quả không cao, thu hút và huy động nguồn lực trong và ngoài nước để giải quyết một thực trạng đã kéo quá dài và chậm được khắc phục.

4. Tăng cường “sức đề kháng” của văn hóa, chống lại mọi sự “xâm lăng” về văn hóa; bài trừ các hình thức văn hóa lai căng, hủ lậu; đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc lịch sử, văn hóa và truyền thống cách mạng
Chúng ta từng đề cập đến chủ trương “phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam”[6]. Cùng với phát huy “sức mạnh mềm”, Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng chủ trương cần tăng cường “sức đề kháng” của văn hóa, tức là tạo ra một hệ miễn dịch đặc trưng cho sức mạnh riêng có của văn hóa để linh hoạt, sáng tạo, chủ động, hiệu quả trước bối cảnh mới khi mà sự “xâm lăng” văn hóa đã và đang diễn ra lúc công khai, lúc ngấm ngầm với đủ mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt có thể làm đảo lộn nhiều giá trị tốt đẹp của dân tộc, ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đến việc xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, mà còn gây mất ổn định chính trị, xã hội của đất nước.
Công nghệ thông tin bùng nổ, chưa bao giờ chúng ta thấy các hình thức văn hóa lai căng, hủ lậu từ bên ngoài xâm nhập vào nước ta nhiều, nhanh, phức tạp như hiện nay, đi ngược lại những thuần phong mỹ tục của dân tộc. Trong khi đa số nhân dân nhận thức rõ đúng, sai, tác hại của nó, thì vẫn còn một bộ phận nhân dân, nhất là giới trẻ ảo ảnh, mơ hồ, bị cuốn theo những thứ không chỉ là vô bổ, mà là có hại đó. Tội phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ không giảm là vì thế.
Sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt là trước đổi mới, những phần tử phản động, chống phá từ nước ngoài lập ra nhiều tổ chức, trong đó có cả một số trí thức, văn nghệ sĩ từng theo cách mạng nhưng trốn ra nước ngoài, câu kết với các phần tử bất mãn trong nước đòi đa nguyên, đa đảng, bóp méo, xuyên tạc không thiếu một thủ đoạn nào, “chuyển lửa về quê nhà”, thậm chí tổ chức xâm nhập về Việt Nam để tổ chức bạo loạn nhằm lật đổ chính quyền cách mạng.
“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[7]. Để bảo vệ những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đó, phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, cùng với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng mà chúng ta đang tiến hành rất có kết quả; cần kiên quyết đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc lịch sử, văn hóa và truyền thống cách mạng của dân tộc. Cùng với việc sử dụng vũ khí tư tưởng, văn hóa sắc bén để thực hiện nhiệm vụ đó, điều quan trọng nhất có lẽ là toàn Đảng, toàn dân ta cần làm cho những mục tiêu mà Đại hội XIII đã đề ra, Đại hội XIV sắp tới sẽ xác định nhanh chóng trở thành hiện thực, củng cố niềm tin vững chắc của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ tốt đẹp mà chúng ta đang xây dựng.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2006, t. 48, tr. 892 -93.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t. 1, tr. 116.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t. 7, tr. 38.
[4] Xem Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2024, tr. 45.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t. 1, tr. 145.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t. 1, tr. 145.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t. 1, tr. 25.








