Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng ta về chính sách xã hội, ngay từ những năm đầu tái lập, trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, tỉnh Ninh Bình đã luôn quan tâm chỉ đạo, xây dựng các chính sách, giải pháp, ưu tiên nguồn lực năm sau cao hơn năm trước để tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội và coi việc chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội luôn là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể trong tỉnh.
Nhìn lại chặng đường 20 năm đổi mới và phát triển của tỉnh (1992 - 2012), nhất là những năm gần đây, có thể thấy rõ những kết quả quan trọng và nổi bật về thực hiện chính sách xã hội.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, những hy sinh, mất mát của các thế hệ nhân dân Ninh Bình là vô cùng to lớn, với gần 17.000 liệt sỹ, trên 7.900 thương binh, trên 6.900 bệnh binh, trên 4.700 người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học.
Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, tỉnh Ninh Bình đã cơ bản hoàn thành việc xác nhận, công nhận và thực hiện chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Hiện nay, tỉnh đang thực hiện chi trả trợ cấp thường xuyên hàng tháng cho gần 26.000 người có công; gần 6000 người có công hưởng chế độ ưu đãi bảo hiểm y tế; trên 125.000 lượt người được hưởng định xuất trợ cấp ưu đãi trong giáo dục đào tạo.
Phong trào "Đền ơn đáp nghĩa" phát triển sâu rộng, trở thành nét đẹp văn hóa trong đời sống xã hội, góp phần giáo dục truyền thống và huy động hiệu quả các nguồn lực để chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho những người có công.
Toàn tỉnh đã có trên 99 % hộ người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống bình quân của dân cư nơi cư trú. Các cơ quan, đơn vị đã tặng gần 6.500 sổ tiết kiệm tình nghĩa trị giá hơn 210 tỷ đồng; 100% mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống được các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế, xã hội nhận phụng dưỡng đến hết đời.
Các cơ sở phục vụ, chăm sóc thương bệnh binh, thân nhân liệt sỹ và người có công từng bước được quan tâm đầu tư nâng cao năng lực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ nuôi dưỡng, điều dưỡng, phục hồi chức năng cho thương bệnh binh và người có công. Trung tâm Điều dưỡng thương binh Nho Quan được Nhà nước phong tặng danh hiệu đơn vị "Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới".
Đến tháng 6/2012, 145/146 xã, phường, thị trấn đã được UBND tỉnh cấp Bằng công nhận đạt tiêu chuẩn làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ, người có công.
Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả nổi bật. Phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh đã phấn đấu giảm dần tỷ lệ hộ nghèo qua mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh. Đặc biệt, những năm gần đây, do đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, công tác giảm nghèo đạt được kết quả cao, tỷ lệ hộ nghèo từ 18,06 % năm 2006 xuống còn 12,27 % (theo tiêu chí năm 2005 là 6,15 %) và xuống còn 9,86 % (theo tiêu chí 2010), hộ cận nghèo còn 7,77%.
Kết quả đó xuất phát từ các nghị quyết của Đảng bộ tỉnh, không chỉ xác định trúng vấn đề mà còn hợp lòng dân, với những giải pháp mạnh, quyết liệt kịp thời giải quyết đúng đắn những vấn đề mà thực tiễn đặt ra như: Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 14/4/2006 về đẩy mạnh phát triển vụ đông đến năm 2010; Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 9/8/2006 về đẩy mạnh trồng, chế biến cói, thêu ren và chế tác đá mỹ nghệ giai đoạn 2006 - 2010, đặc biệt là Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 15/10/2007 về tăng cường lãnh đạo công tác giảm nghèo đến năm 2010.
Chỉ trong 3 năm (2007 - 2009), đã huy động trên 6.200 tỷ đồng để thực hiện mục tiêu giảm nghèo, trong đó tập trung vào xây dựng kết cấu hạ tầng; hỗ trợ chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi; phát triển ngành nghề; giải quyết việc làm cho 35.000 lao động, từ đó 12.133 hộ đã thoát nghèo.
Nhiều dự án lớn về giao thông, thủy lợi như dự án phân lũ, chậm lũ sông Hoàng Long, dự án đê biển Bình Minh II, đê sông Đáy,… được đầu tư ở cụm xã nghèo, các xã bãi ngang đã góp phần nâng cao năng lực phòng, chống lụt bão, ổn định sản xuất nông nghiệp, làm thay đổi diện mạo nhiều vùng quê. Các hộ nghèo đã được tiếp cận các dịch vụ cơ bản, nhất là y tế, giáo dục và đào tạo, hơn 89.000 người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế, trên 25.000 hộ nghèo được hỗ trợ tiền điện.
Ninh Bình đã triển khai thực hiện tốt Quyết định 167 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở. Trong 2 năm (2008 - 2010), toàn tỉnh đã huy động được hơn 81 tỷ đồng và gần 100.000 ngày công lao động để xây mới, sửa chữa gần 3000 căn nhà cho hộ nghèo, là tỉnh đầu tiên trong cả nước công bố hoàn thành chương trình này, về đích trước thời hạn 2 năm. Từ năm 2010 đến nay, căn cứ vào tiêu chí chuẩn nghèo mới của Nhà nước giai đoạn 2010 - 2015, tỉnh tiếp tục hỗ trợ các hộ nghèo, gia đình chính sách xây mới, sửa chữa nhà ở, nâng tổng số hộ được hỗ trợ lên 3.608 hộ.
Công tác Giáo dục - đào tạo được tỉnh quan tâm đầu tư, phát triển cả về bề rộng và chiều sâu và đã đạt được những tiến bộ mới, toàn diện. Đến nay, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn trên 98 %. Tính đến hết tháng 6/2012 tỷ lệ phòng học kiên cố hóa cao tầng đạt 82,6%, toàn tỉnh có 326 trường đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ trên 64 % (trong đó có 100 % các trường tiểu học). Công tác đào tạo nghề được tỉnh chú trọng, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 31% năm 2011, bình quân mỗi năm đã tạo việc làm mới cho gần 20.000 lao động.
Lĩnh vực y tế đạt nhiều tiến bộ. Đến nay, Ninh Bình đã có 177 cơ sở khám - chữa bệnh và 7 trung tâm y tế tuyến tỉnh đảm nhiệm công tác y tế dự phòng, trong đó Bệnh viện đa khoa tỉnh quy mô 700 giường là cơ sở y tế hiện đại trong khu vực. Trên 86 % số xã đã đạt chuẩn quốc gia về y tế; trên 66 % trạm y tế cấp xã có bác sỹ, bình quân có 30 giường bệnh/1 vạn dân, có 5,8 bác sĩ/1 vạn dân. Số người tham gia bảo hiểm y tế đã chiếm 64,1 % dân số.
Cùng với các lĩnh vực nêu trên, một số vấn đề xã hội khác được quan tâm chỉ đạo quyết liệt. Công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em được quan tâm. Đến nay 100 % trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được bảo vệ, chăm sóc. Hơn 10.000 người cao tuổi không hưởng lương hưu, trợ cấp xã hội được hưởng trợ cấp kịp thời theo quy định của Luật Người cao tuổi. Công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ đạt được nhiều kết quả tích cực; Ninh Bình là một trong những tỉnh có tỷ lệ đại biểu Quốc hội là nữ cao nhất toàn quốc, tỷ lệ đại biểu nữ tham gia HĐND tỉnh đạt 30%, HĐND cấp huyện đạt 28.14 %, HĐND cấp xã đạt 23,57 %.
Phát triển kinh tế nhanh kết hợp với giải quyết tốt các vấn đề xã hội đã thực sự làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong tỉnh được nâng lên. Thu nhập bình quân đầu người năm 2011 đạt gần 25 triệu đồng, cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Các xã, phường, thị trấn trong tỉnh đã được phủ sóng phát thanh, truyền hình; tỷ lệ người dân được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 85 %. Trung tâm Thành phố và một số điểm du lịch được sử dụng miễn phí mạng Wifi; nhân dân được thụ hưởng nhiều giá trị văn hóa, nghệ thuật.
Nhìn lại quá trình thực hiện chính sách xã hội ở tỉnh ta những năm gần đây, tuy đạt được những kết quả toàn diện, trong đó có những lĩnh vực đạt được kết quả nổi bật; song nghiêm túc kiểm điểm và nhìn lại vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Đời sống của một bộ phận người có công còn khó khăn do mức trợ cấp còn thấp. Công tác tạo việc làm và giảm nghèo chưa thực sự bền vững, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo còn cao, nguy cơ tái nghèo còn tiềm ẩn, tư tưởng trông chờ, ỷ lại còn nặng nề, quyết tâm thoát nghèo của một bộ phận người nghèo chưa mạnh mẽ. Đời sống văn hóa của nhân dân, nhất là vùng miền núi, vùng sâu còn nhiều khó khăn, thụ hưởng các giá trị văn hóa còn hạn chế.
Việc thu hẹp khoảng cách về mức sống và an sinh xã hội giữa các vùng, miền trong tỉnh còn nhiều bất cập. Nguồn lực vật chất, trong đó có nguồn ngân sách để thực hiện các chính sách xã hội còn hạn chế. Đó chính là những khó khăn, thách thức mà tỉnh ta phải tập trung giải quyết.
Qua quá trình thực hiện chính sách xã hội, tỉnh ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm, đó là: Cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị phải xác định đây là nhiệm vụ rất quan trọng, cần thiết và cấp bách, là trách nhiệm lương tâm và tình cảm của người lãnh đạo, nhất là người đứng đầu.
Cấp ủy phải chọn đúng, trúng vấn đề để ra nghị quyết lãnh đạo. Nghị quyết và các đề án thực hiện phải đưa ra một hệ thống giải pháp đồng bộ, thực thi, bảo đảm các điều kiện thực hiện, đồng thời thường xuyên rà soát, bổ sung chính sách của tỉnh để phù hợp với sự vận động của thực tiễn.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải tập trung, quyết liệt, cụ thể, sâu sát, có kiểm tra, đôn đốc thường xuyên, có sự phối hợp chặt chẽ, rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm.
Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp cơ sở để có đủ năng lực chỉ đạo, triển khai thực hiện các chính sách xã hội.
Quan tâm đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, tạo sự thống nhất ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia thực hiện chính sách xã hội.
Phải tập trung huy động tốt các nguồn lực xã hội, nhất là nguồn lực từ các doanh nghiệp để cùng với nguồn lực của Nhà nước chăm lo thực hiện chính sách xã hội, đây phải là kết quả của việc phát huy sức mạnh tổng hợp cả Trung ương và địa phương, cả bên trong và bên ngoài của cả hệ thống chính trị.
Vừa qua, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 15 - NQ/TW về "Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020". Tỉnh ta đang tập trung quán triệt, học tập và xây dựng các chương trình hành động thiết thực nhằm tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết này.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng, Đảng bộ tỉnh xác định mục tiêu là tập trung cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công, cơ bản bảo đảm đến năm 2015, gia đình người có công trong tỉnh có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn; đến năm 2020, cơ bản bảo đảm an sinh xã hội toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước hợp vệ sinh và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân; phấn đấu đến năm 2013, 100 % gia đình người có công, khó khăn về nhà ở được hỗ trợ bảo đảm có nhà ở kiên cố; đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo tăng 3,5 lần so với năm 2010; giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh mỗi năm từ 1,5 - 2 %, các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao giảm trên 4 %/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn; mỗi năm tạo việc làm mới cho từ 18.000 - 20.000 lao động; đến năm 2020 có 50 % lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội, 35 % lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp; đến năm 2020 có 100 % người dân tham gia bảo hiểm y tế; trên 99 % trẻ em đi học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học, 95 % ở bậc trung học cơ sở, 98 % người trong độ tuổi từ 15 trở lên biết chữ; trên 95 % dân số khu vực nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 100 % hộ gia đình được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh vào năm 2020.
Phát huy những kết quả đạt được, trong thời gian tới, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhóm giải pháp chủ yếu sau:
Một là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với việc thực hiện chính sách xã hội. Coi trọng việc quán triệt, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, tác động của chính sách xã hội đối với sự phát triển nhanh và bền vững của tỉnh. Nghiên cứu, rà soát, bổ sung các cơ chế, chính sách của tỉnh chưa phù hợp, chưa đủ mạnh nhằm từng bước phát triển hệ thống an sinh xã hội, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xã hội hóa các hoạt động để thực hiện tốt các chính sách xã hội trong những năm tới.
Hai là: Tập trung thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách ưu đãi, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người có công. Xử lý dứt điểm các trường hợp còn tồn đọng về xác nhận, công nhận người có công. Đẩy mạnh phong trào "Đền ơn đáp nghĩa", "Uống nước nhớ nguồn", "Xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ, người có công". Ưu tiên hỗ trợ người có công và thân nhân của họ về phát triển sản xuất, học nghề, tạo việc làm, tiếp cận các dịch vụ về giáo dục và đào tạo, y tế.
Hoàn thiện dự án xây dựng Trung tâm điều dưỡng người có công tỉnh Ninh Bình để sớm đưa vào hoạt động, đầu tư nâng cao năng lực các cơ sở chăm sóc người có công hiện có.
Tập trung thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở Quốc gia đến năm 2020, nghiên cứu xây dựng quy hoạch, huy động nguồn lực để xây dựng nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp, trước hết cho đối tượng công nhân lao động ở các khu, cụm công nghiệp tập trung, lực lượng vũ trang, học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh.
Ba là: Thực hiện tốt chính sách đảm bảo an sinh xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu để tạo việc làm cho người lao động. Đẩy mạnh công tác dạy nghề, nhất là dạy nghề cho lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của tỉnh.
Tập trung nguồn lực để thực hiện tốt các chính sách đối với các hộ nghèo, đồng thời nghiên cứu bổ sung chính sách hỗ trợ hộ cận nghèo để giảm nghèo bền vững. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến kết hợp với kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; khuyến khích nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Thực hiện trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, nhà ở, thông tin, nước sinh hoạt hợp vệ sinh cho người dân nhất là hộ nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc ít người.
Bốn là: Cần gắn việc thực hiện chính sách xã hội với triển khai Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Nông dân chiếm phần lớn dân số của tỉnh, do vậy thực hiện tốt chương trình xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân là nhiệm vụ quan trọng trong thực hiện chính sách xã hội.
Các cấp, các ngành cần chủ động, tích cực, năng động, sáng tạo trong triển khai thực hiện ở địa phương, đơn vị; phải huy động cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia, trong đó cấp ủy Đảng, chính quyền giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện, nhân dân là chủ thể; cần phát huy mọi nguồn lực xã hội, phải nắm chắc nguyên tắc, phương pháp, cơ chế vận hành, đặc biệt là đề cao trách nhiệm người đứng đầu trước công việc và trước nhân dân.
Xây dựng và thực hiện chính sách xã hội đúng đắn, công bằng, vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, phát triển quê hương.
Kết quả thực hiện chính sách xã hội thời gian qua đã tạo nền tảng vững chắc và những bài học kinh nghiệm quý báu để tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XI), tạo động lực mới để khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của địa phương, cũng là yếu tố bền gốc, yên dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị, góp phần để tỉnh Ninh Bình phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
Bùi Văn Nam, UVT.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh ủy