Đặc biệt, việc nhấn mạnh “Nâng cao đời sống văn hoá, thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền, giữa các tầng lớp nhân dân; chú trọng phát triển văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số” là chủ trương rất hợp lòng dân. Tôi cũng như nhiều đồng bào dân tộc Mường mong muốn có cuộc sống ấm no, con cháu được học hành, bản sắc văn hóa được giữ gìn, quê hương ngày càng khởi sắc. Đó cũng là niềm tin gửi trọn vào Đảng.
Từ thực tế công tác tại địa phương, là người có uy tín trong cộng đồng, tôi đề xuất Văn kiện cần làm rõ và nhấn mạnh hơn vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp đổi mới, không chỉ là đối tượng thụ hưởng chính sách, mà là lực lượng trực tiếp tham gia và đóng góp vào sự phát triển đất nước.
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù để đồng bào dân tộc thiểu số được phát huy nội lực, vươn lên thoát nghèo bền vững. Bên cạnh các chương trình mục tiêu quốc gia, cần có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế xanh, kinh tế nông nghiệp sinh thái, du lịch cộng đồng và nghề truyền thống gắn với bảo tồn văn hóa dân tộc.
Thứ hai, Văn kiện cần bổ sung nội dung nhấn mạnh vai trò của văn hóa dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số trong phát triển con người Việt Nam, cần quan tâm hơn đến công tác bảo tồn, truyền dạy tiếng nói, chữ viết, lễ hội, trang phục, nghệ thuật dân gian.
Thứ ba, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số, đặc biệt là thế hệ trẻ có năng lực, tâm huyết, được rèn luyện từ cơ sở. Họ chính là cầu nối quan trọng để đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với nhân dân, đồng thời phản ánh nguyện vọng chính đáng của nhân dân lên cấp trên.
Là hộ sản xuất kinh doanh tại địa phương, tôi cũng mong muốn Văn kiện quan tâm hơn tới chuyển đổi số vùng dân tộc thiểu số, coi đây là bước đột phá để đồng bào tiếp cận tri thức, học tập, quảng bá sản phẩm, kết nối thị trường. Qua đó góp phần khơi dậy tinh thần tự chủ, khát khao lao động, sáng tạo của đồng bào dân tộc thiểu số thay vì tâm lý trông chờ, ỉ lại như trước đây.