Danh lam thắng cảnh Non Nước
Núi có từ lâu lắm, bể dâu thay đổi, biển lùi xa và núi từ mặt đất trội lên, lặn ngụp thách thức với thời gian hàng triệu năm, như một nghệ sĩ tuyệt vời mà thiên nhiên đã kiến tạo nên. Nói như Ngô Thì Sĩ, bốn chữ Hán lớn khắc ở vách núi phía Nam vào năm 1770 Vũ Trụ Dĩ Lai, từ có vũ trụ, có trời đất là có núi này và bốn chữ Hán nữa cũng khắc trước động Tam Phủ ở phía Đông Bắc, Y Nhiên Thiên Cổ, muôn đời vẫn thế của Tuần phủ Ninh Bình Nguyễn Hữu Tường vào năm 1908.
Núi cao khoảng 25 mét, chiều Nam - Bắc rộng 40 mét, chiều Đông - Tây rộng hơn 60 mét, thuộc phường Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Đỉnh núi tương đối bằng phẳng, lát đá, rộng khoảng 3 sào Bắc Bộ, xung quanh xây tường thấp. Phía trước núi nhô cao hơn phía sau. Phía Bắc và phía Đông chân núi, lưỡi sóng đã liếm mòn quanh, bào gọt, khoét sâu hõm vào, làm cho thế núi muốn nhô ra để soi trọn mình trên tấm gương sông Đáy, tạo thành một mái hiên hình vòm cuốn, đổ bóng, che rợp một khoảng sông có chiều dài gần 30 mét. Dưới bóng rợp ngàn đời đó, nước sông ngả màu xanh đen mỗi khi mặt trời xế bóng hay lung linh bảy sắc cầu vồng lúc bình minh chiếu sáng, những chiếc tàu thuyền lớn nhỏ chở vật liệu xây dựng tấp nập nghỉ ngơi, yên tĩnh đến xao lòng.
Phía Bắc núi, nước biển hàng triệu năm đẽo gọt làm cho vách đá nhẵn lì như mài và mòn lõm chạy sâu vào làm thành động, gọi là động Tam Phủ (Thiên Phủ, Địa Phủ, Thuỷ Phủ), được coi là phủ Mẫu thiên tạo, đặt các bát hương và đồ thờ bằng đá, có đá xếp làm đường vào động, lúc giao mùa từ hạ sang thu nước sông dâng cao ngập cả đường vào động. Thời xưa, có cây cầu đá nhỏ cong cong để vào động Phía Đông và Đông Nam vách đá cũng lõm sâu vào dưới chân núi. Đó là những kỳ công tuyệt tác của tạo hoá mà con người không thể nào làm được.
Cũng ở sườn núi phía Bắc, tảng đá gần dòng nước mé sông Đáy, có khắc ba chữ Hán lớn: Khám Giao Đình (Đình ngồi xem giao long, tức thuồng luồng) của vua Lê Hiển Tông (1740-1786) được chạm khắc vào năm 1782. Phía Tây Nam chân núi có đền thờ Sơn Tinh và Thuỷ Tinh (đã mất - hiện nay xây đền thờ Trương Hán Siêu ở đó).
Trên các vách núi, nhũ đá rêu phong, những lùm cây mọc xanh biếc, có nhiều mỏm đá như hình muôn tượng hoá thành.
Muốn đến đỉnh núi Non Nước, du khách phải bước lên gần 100 bậc đá rộng ngoằn ngoèo bên sườn núi phía Nam, nhiều bậc đá đã mòn lõm, nhẵn lì vì đã có nhiều người lên núi.
Hai bên lối đi ở dưới đã thấy một số bia chạm khắc chữ Hán. Từ chân núi bước lên 18 bậc đá, bên trái là một bia nhỏ chạm khắc thơ chữ Hán của Tôn Thất Tĩnh. Bước lên chín bậc nữa, bên phải nhìn thấy bia của Nguyễn Hữu Tường. Bước lên sáu bậc nữa cũng ở bên phải là một bia chạm khắc chữ Hán nhỏ trên một mỏm đá.
Lên tới đỉnh núi, du khách thấy cảnh sông nước bao la, mây trời tuyệt đẹp và cõi lòng lắng xuống để thả bay trong gió những lo toan trần tục của cuộc sống thường nhật.
Trên các vách núi ở phía Đông Nam đỉnh núi có rất nhiều bia của các vị vua và tao nhân mặc khách ở dưới thấp và trên cao.
Từ ngàn xưa, núi có tên là Non Nước. Đến đời Trần, Trương Hán Siêu đặt tên núi là Dục Thuý, có nghĩa là con chim trả tắm mình bên dòng sông nước bạc (Dục là tắm, Thuý là con chim trả) - tên gọi rất tượng hình, đầy màu sắc mộng mơ.
Núi còn có một số tên gọi khác nữa như: Băng Sơn, Lạc Sơn, Lạc Thuỷ, Sơn Thuỷ, Ngự Trấn Phòng Sơn, Hộ Thành Sơn, Thanh Hoa Ngoại Trấn Sơn, Trấn Hải Đài, Dục Thuý Sơn Hải Khẩu... Tên gọi nào cũng đẹp, cũng thơ. Còn nhân dân thì gọi núi là Non Nước - cái tên nôm na, giản dị bằng những câu ca dao:
Ai về qua đất Ninh Bình
Mà xem phong cảnh hữu tình nên thơ.
Nước non, non nước như mơ,
Càng nhìn Non Nước càng ngơ ngẩn tình.
Chính vì vậy, Phan Huy Chú viết: Về núi sông có tiếng, thì phong cảnh núi Dục Thúy là thứ nhất… Núi lạ, sông đẹp, cảnh trí rất xinh.
Núi thơ-Núi ngọc
Trương Hán Siêu đã cho khắc bài thơ “Dục Thúy Sơn” (hiện nay không còn), các vị vua và các tao nhân mặc khách nổi tiếng cũng đã cho khắc nhiều thơ ở núi gồm: Tiến sĩ Phạm Sư Mạnh, vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497), vua Lê Hiến Tông (1461 -1504), vua Lê Tương Dực (1455 - 1516), Thám hoa Nguyễn Huy Oánh (1713 - 1789), Tiến sĩ Ngô Phúc Lâm (1722 - 1784), Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803), Tuần phủ Ninh Bình Tôn Thất Tĩnh, Hoàng giáp Phạm Văn Nghị (1805 - 1881)…, đặc biệt có một người Trung Quốc sống ở đời vua Càn Long là Phạm Bá Đàn cũng có thơ khắc ở núi.
Hiện nay, trên núi Dục Thúy có 30 bài thơ (30 bút tích thơ) được chạm khắc của 24 tác giả, trong đó gồm 23 bài thơ chữ Hán, một bài thơ chữ Nôm duy nhất của Tri phủ Nho Quan Trần Tâm, 6 bài thơ chạm khắc chữ Quốc ngữ của 6 tác giả: Nguyễn Đình Chuẩn, Từ Đạm, Tản Đà, Từ Thiệp, Nguyễn Đình Giác, Phạm Huy Toại.
Trong 30 bài thơ thì thời Trần có một bài thơ, thời Lê có sáu bài thơ, thời Nguyễn có 23 bài thơ được chạm khắc trên núi hiện còn. Có lẽ, tác giả cho chạm khắc thơ trên núi đầu tiên là Trương Hán Siêu, người cho chạm khắc thơ cuối là Phan Đình Hòe vào năm 1932.
Gọi là bài thơ thì phải còn nguyên vẹn. Trên vách núi còn có dòng lạc khoản của Nguyễn Tử Chấn, bia Hưng Tạo rất mờ, chữ mất nét và bia bài thơ “Nghìn xưa” bằng chữ Quốc ngữ, chưa rõ tác giả, chỉ còn một vài chữ, bị mảng bê tông vỡ rơi che khuất. Ba bút tích đó không gọi là bài thơ được. Các bài thơ chạm khắc trên núi chủ yếu theo thể thơ Thất ngôn bát cú và Tứ tuyệt.
Dĩ nhiên, núi Dục Thúy còn có một số bài thơ chạm khắc nữa nhưng do thực dân Pháp phá núi xây dựng lô cốt trên núi nên hiện nay không còn, chỉ còn 30 bài thơ mà thôi. Đó là điều đáng tiếc.
Theo một số sách chữ Hán xưa còn ghi, 9 tác giả có 10 bài thơ chữ Hán được chạm khắc trên núi (hiện còn trên thác bản) là: Trương Hán Siêu, Nguyễn Hữu Nghi, Hoàng Quýnh Liệt, vua Thiệu Trị, Tiến sĩ Trương Quốc Dụng, Bùi Huy Tùng, Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản, Hoàng giáp Lê Hữu Thanh, Tuần phủ Ninh Bình Trần Thiện Chính (2 bài). Trên núi Dục Thúy không tìm thấy 10 bài thơ này vì đã mất bia do thực dân Pháp phá đỉnh núi xây lô cốt.
Ngoài ra, núi Dục Thúy còn được khắc bài “Dục Thúy Sơn Linh Tế tháp ký” của Trương Hán Siêu viết vào năm 1343; Thánh chỉ của Thái Thượng Hoàng đế Trần Minh Tông khắc vào niên hiệu Thiệu Phong, năm Kỷ Sửu (1349) đời vua Trần Dụ Tông; các văn bản liên quan tới ruộng đất, địa giới, địa danh cổ; bia Cúng tiến, ruộng đất của hai Công chúa Huyền Tư và Huệ Thục… Các bia chạm khắc văn xuôi hiện còn trên núi còn đọc được chỉ có khoảng 6 bài.
Ngoài nhiều bài thơ, bài văn khắc trên núi, còn có đến hàng trăm bài thơ cổ khác viết vịnh núi Dục Thúy của các vị vua và những thi nhân như: Trần Anh Tông, Thiệu Trị, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát, Ninh Tốn, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Xuân Ôn, Phạm Văn Nghị, Nguyễn Quý Thứ, Trần Thiện Chính, Lê Hữu Thanh, Nguyễn Miên Thẩm, Vũ Duy Thanh, Vũ Phạm Khải,… và các tác giả khuyết danh.
Tất cả đã hội tụ về đây như đất lành chim đậu, mỗi tên gọi sáng lấp lánh một vì sao văn học dân tộc trên bầu trời văn hoá Việt Nam. Núi đã mài mòn nét bút của các hào kiệt, là Núi Thơ - Núi Ngọc hoặc mệnh danh là Bi Lâm (Rừng bia). Một tuyển tập thơ của thiên nhiên có một không hai ở đất nước ta, chứa đựng những bài thơ hay trong 7 thế kỷ qua. Không một ngọn núi nào trên đất nước Việt Nam có nhiều thơ khắc như ở núi Non Nước. Núi hiện nay chỉ còn 30 bài thơ chạm khắc trên núi và khoảng 10 bài văn. Đó là chứng tích những bức thông điệp văn học vô giá - ký ức của núi - lưu truyền trường tồn cho các thế hệ mai sau, đã tô điểm thêm cho núi thêm phần cổ kính, trang nghiêm, trí tuệ và có hồn hơn. Đó cũng là giá trị văn hoá thể hiện tài năng sáng tạo, kỹ thuật tinh xảo, điêu luyện của các nghệ nhân khắc chữ Hán trên đá thời xưa.
Bất luận thời gian, trải qua bao độ phong sương, mưa nắng của đất trời, những bài thơ chữ Hán, chữ Nôm nơi đây như những tác phẩm điêu khắc tạo hình hoàn chỉnh cho cái đẹp của núi, đã cuốn hút nhiều du khách, lòng không muốn dời, chân không muốn bước, để chìm say trong cảnh núi sông tuyệt mĩ.
Mỗi bài thơ khắc ở núi đều có một nét riêng toả sáng như viên ngọc quý có nhiều màu sắc làm cho núi càng tăng thêm kỳ ảo. Con chim trả khổng lồ ấy đã lưu giữ trên mình những bài thơ cổ bất hủ. Thơ khắc kín tất cả các sườn núi Non Nước, ở ngay cả những vách đá chênh vênh trên cao, dưới thấp. Những vách gấm này đã vững trãi giữa trời mây, non nước bao la.
Nếu tính tất cả các bút tích thơ và văn xuôi được chạm khắc trên các vách núi Non Nước dù ít chữ hay nhiều chữ, bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ, có cả bàn chân phải của Từ Đạm thì số lượng bia có khoảng 55 bia đã được chạm khắc, trong số này có khoảng 15 bia đã mất, còn lại khoảng 40 bia, trong đó có 30 bài thơ, khoảng 6 bài văn xuôi, 3 bia nhỏ có ít chữ Hán và hình dấu bàn chân phải của Từ Đạm hiện còn trên núi.
Qua thời gian mưa nắng, nước chảy đá mòn, rêu phong đã che phủ dày một số bài thơ. Nhiều nét chữ Hán, chữ Nôm mờ, không còn đọc được. Nếu không sớm triển khai các biện pháp bảo vệ, những bài thơ đó sẽ dần bị phai mờ theo thời gian.