Ở tuổi ngoài 40, lần đầu tiên chị họ tôi được về quê ăn Tết sau nhiều năm định cư bên Đức. Làm vợ, rồi làm mẹ, tự tay chị lo toan bao cái Tết cho gia đình. Mặc dù ở "trời tây" chẳng thiếu thứ gì, song bao giờ chị cũng cố gắng cho con trẻ được tận hưởng một cái Tết đậm nét cổ truyền của dân tộc Việt Nam. "Bánh chưng xanh, thịt mỡ, dưa hành… thì tận tay làm được. Song cái không khí chộn rộn, sum vầy, đậm tình nghĩa xóm làng ấy thì chẳng thể nào có được. Vì vậy, năm nay chị quyết định dành thời gian để đưa bé út về thăm lại gia đình, quê hương đúng vào dịp Tết cổ truyền"- chị Lan nói vậy.
Chị Lan gọi bố tôi là cậu, mẹ chị mất sớm, bố chị lấy vợ khác và lập nghiệp trong miền Nam. Vì vậy, lần này trở về quê, chị Lan ăn Tết cùng với gia đình tôi. Ngày 29 Tết, chị Lan đòi tôi đưa đi chợ quê. Chị bảo, những ngày giáp Tết, một làn khói bếp, một tiếng lợn kêu… cũng đều là mảnh ghép quý để chị nhớ đến quay quắt cái Tết năm xưa. Giờ, chợ quê chẳng thiếu gì, cũng ngập tràn hàng hóa và các loại hoa. Nhưng chị vẫn nhận ra nét gì rất riêng, rất quê kiểng. Chợ quê tôi có tự bao giờ không ai rõ, nó là nơi giao thương của vài xã vùng lân cận. Vốn là vùng quê thuần nông nên ngày xưa nhà nào cũng phải làm đồng cho đến cận ngày Tết. Trời rét, mưa phùn lất phất, rửa sạch tay bùn là các bà, các chị vội quàng tấm áo mưa còn vương bùn đất, gánh gồng ra chợ bán vài sản vật mà gia đình làm. Đôi khi, những sản vật ấy chỉ đủ để đổi lấy bó lá dong riềng, khi là gói thuốc hay chỉ vài lạng chè khô đãi khách. Cứ sắm dần, đến chiều 30 Tết thì trong nhà cũng đủ đầy: nào bánh chưng xanh, cây giò mỡ, trên bàn thờ tổ tiên có đủ mâm ngũ quả, đèn, nến, hương trầm… Chỉ có bọn trẻ con chúng tôi là chịu thiệt đôi chút, bởi ít gia đình có điều kiện mua cho con bộ quần áo mới để diện Tết, đa phần các bà mẹ đều tự chuẩn bị quần áo cho con trẻ bằng cách sửa lại những chiếc quần áo cũ. Như để bù đắp những thiệt thòi đó, chúng tôi được các bà, các mẹ cho đi chơi chợ Tết. Đứa lớn thì chạy tung tăng, đứa nhỏ thì được mẹ cho vào một bên quang gánh quẩy ra chợ. Ra đến chợ, những đứa trẻ tròn mắt đầy háo hức, chưa bao giờ chúng tôi nhìn thấy một không gian rộn rã và ngập sắc màu đến nhường ấy. "Ngày còn nhỏ, chị vẫn được mẹ cho đi chợ Tết từ sáng sớm, năm đi bộ, năm đi bằng thuyền. Đến chợ, chị chả cần ăn gì, chị ước mẹ mua cho một chiếc bím tóc thật xinh để diện Tết… chị Lan xúc động nhớ lại.
Chiều 29 Tết, sắm sanh đủ các nguyên liệu, gia đình tôi bắt tay vào việc gói bánh chưng. Cuộc sống đủ đầy, nhiều nhà chọn cách mua bánh cho đỡ vất vả. Nhưng với gia đình tôi thì vẫn giữ thói quen gói bánh cho đến tận bây giờ. Chị Lan bảo, ở nước ngoài, vào dịp Tết chị vẫn gói bánh chưng vì vậy mà chị gói khéo, vuông vắn chiếc bánh mà chẳng cần phải dùng tới khuôn. Còn nhớ, ngày xưa nhà chị nghèo lắm, đến tận ngày 30 Tết, hai mẹ con chị vẫn phải ngồi đợi bố đi đánh đụng mang thịt lợn về để làm nhân gói bánh. Mà chẳng riêng gì nhà chị đâu, cả nhà tôi, cả những nhà trong xóm nhỏ của tôi đều như vậy. Cả xóm chung nhau một con lợn, chia ra thì chẳng đáng là bao nhiêu nhưng chộn rộn, vui vẻ. Gạo để gói bánh là loại nếp cau, được mẹ dành dụm suốt trong năm, bảo quản trong chum sành dành riêng gói bánh Tết. Buổi gói bánh của gia đình tôi năm nay đông người và rộn rã tiếng cười nhất. Hình ảnh ấm cúng, sum vầy khiến không khí ngày giáp Tết trở nên ấm áp hơn. Những ồn ào, lo toan của cuộc sống bỗng chốc dừng lại sau bậu cửa, chỉ còn sự hoan hỉ của mùa xuân mới đang về.
Trời sẩm tối, bố tôi bắt đầu bắc bếp, thổi lửa. Gần 70 tuổi, nhưng những thao tác của bố vẫn còn nhanh nhẹn. Củi nấu bánh cũng được bố chuẩn bị từ những ngày trong năm, vì vậy mà rất khô, đượm lửa. Đến rạng sáng hôm sau là có thể vớt bánh, đủ thời gian thì bánh mới xanh, mới rền. Thức canh nồi bánh chưng, chẳng riêng gì người lớn mà bọn trẻ con cũng háo hức. Chúng ngồi quanh bếp lửa, lắng nghe chúng tôi rủ rỉ kể về những cái Tết năm xưa, khi chúng tôi cũng chỉ là đứa trẻ như chúng bây giờ. Ký ức xa xưa hiện về thật gần, ngày ấy, bên nồi bánh chưng rực lửa, cả tôi, cả chị và biết bao đứa trẻ khác cũng chỉ mong manh trong bộ quần áo sờn cũ, vậy mà đứa nào cũng háo hức, say sưa chẳng thấy rét, thấy run… Như sực nhớ ra điều gì, chị Lan chạy vào trong buồng mang ra một bó lá mùi già. Chị cười bảo, sáng nay đi chợ, chị mua được bó mùi già để đun nước tắm cho bọn trẻ, "tẩy trần" những gì còn xui xẻo của năm cũ. Ngày xưa, mẹ chị vẫn thường làm như vậy. Từ ngày lớn lên, đi làm trên thành phố rồi theo chồng sang Đức lập nghiệp, chị chia tay hẳn với thứ lá có mùi thơm gợi nhớ này. Nhưng bao giờ cũng vậy, cứ vào khoảnh khắc trước thềm năm mới, cái mùi ngai ngái, hăng hắc ấy lại trở về như nhắc nhở chị nhớ về cội nguồn. Đưa lên hít hà thật sâu cái mùi hăng hắc ấy, chị Lan bảo, đó là mùi của sự chăm sóc, của tình yêu thương từ hơi ấm của bà, của mẹ. Sáng mai, khi con gái nhỏ của chị ngủ dậy, chị sẽ cho nó rửa mặt bằng thứ nước đặc biệt này, một thứ mùi vị đặc trưng của đồng đất quê hương sẽ mãi lưu luyến, vương vấn trong cả năm để nhắc nhở con gái mình mãi nhớ về cội nguồn, gốc rễ như chị bây giờ.
Đào Hằng