Những ngày tháng 8 lịch sử này chúng tôi về thăm Nhà tưởng niệm đồng chí Nguyễn Hữu Tiến (tổ dân phố Lũng Xuyên, phường Đồng Văn). Ngôi nhà được xây dựng trên nền nhà cũ của bố mẹ ông. Những ngày này thường xuyên có các đoàn đến dâng hương, tưởng nhớ người chiến sĩ cộng sản một đời vì dân vì nước. Phía trên ban thờ, nổi bật chính giữa là bức cuốn thư thể hiện hình tượng Quốc kỳ; phía dưới bức cuốn thư là bức tượng bán thân người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Hữu Tiến. Trong ngôi nhà lưu giữ nhiều kỷ vật của ông và những tư liệu, sách báo viết về ông.
Trên tường phía bên trái cửa vào treo trang trọng bức tranh sơn dầu của nhạc sĩ Văn Cao- tác giả Quốc ca, vẽ đồng chí Nguyễn Hữu Tiến đang phác thảo lá cờ đỏ sao vàng. Thuở thiếu thời, đồng chí Nguyễn Hữu Tiến theo cha ra Hải Phòng và sớm được truyền bá tinh thần yêu nước. Theo Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Nam (cũ) giai đoạn 1927-1975, năm 1924, ông trở về quê nhà mở trường tư ở làng để dạy học và truyền bá tinh thần yêu nước.
Thời điểm đó, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục sục sôi, tấm gương các chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã tác động lớn đến ông, thắp sáng trong ông ngọn lửa cách mạng. Năm 1927, Nguyễn Hữu Tiến là một trong những cán bộ tham gia thành lập Chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên ở Hà Nam và đảm nhiệm vai trò Bí thư, mở ra bước ngoặt mới cho phong trào đấu tranh tại địa phương.
Sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập tại Hà Nội vào tháng 6/1929, chủ trương về xây dựng các chi bộ Đảng ở Hà Nam được triển khai. Tháng 11/1929, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở trường học được thành lập và Nguyễn Hữu Tiến được bầu làm bí thư chi bộ.
Đến tháng 9/1930, tại Hội nghị đại biểu Đảng bộ Hà Nam đã cử ra Ban Tỉnh ủy lâm thời Hà Nam gồm 3 đồng chí, trong đó có đồng chí Nguyễn Hữu Tiến. Từ sau hội nghị này, phong trào cách mạng ở Hà Nam phát triển mạnh mẽ; Tỉnh ủy quyết định lập cơ sở in và ra tờ báo của Đảng bộ Hà Nam, lấy tên là báo Dân cày, cơ sở in đặt tại nhà đồng chí Nguyễn Hữu Tiến.
Trong thời kỳ này, Nguyễn Hữu Tiến đã viết nhiều bài báo có nội dung tố cáo, đả phá những thói hư tật xấu, tệ tham nhũng của bọn hương lý, kỳ hào; tuyên truyền lòng yêu nước, giáo dục quần chúng chống thực dân, phong kiến...
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Tháng 10/1930, Trung ương Đảng quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 1/1931, Hội nghị đại biểu Đảng bộ Hà Nam họp tại Lũng Xuyên quyết định ra tờ báo Đỏ- cơ quan ngôn luận của Đảng bộ, bầu Ban Tỉnh ủy chính thức gồm 7 đồng chí, trong đó đồng chí Nguyễn Hữu Tiến phụ trách tuyên truyền huấn luyện.
Trong thời kỳ này, thực dân Pháp tăng cường đàn áp nhằm làm nhụt chí và lung lạc tinh thần của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tháng 5/1931, đồng chí Nguyễn Hữu Tiến cùng với một số đồng chí khác rơi vào tay mật thám và bị đưa về giam giữ ở nhà lao Nam Định, sau đó tiếp tục bị chuyển qua các nhà tù khét tiếng như Hỏa Lò (Hà Nội), nhà tù Sơn La.
Tại các nơi giam giữ, ông bị địch tra tấn dã man, đánh đến gãy chân hòng bắt ông khai những bí mật của Đảng, nhưng ông tỏ rõ tinh thần kiên trung, bất khuất, giữ vững khí tiết của người cộng sản, không hé răng nửa lời và luôn lạc quan, tin tưởng, tích cực đấu tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù đế quốc.
Ở nhà tù Hỏa Lò, ông tham gia viết bài đều đặn cho các kỳ “Lao tù tạp chí”, luôn động viên anh em trong tù giữ vững tinh thần cách mạng... Không khuất phục được ông, tháng 12/1933, thực dân Pháp đưa Nguyễn Hữu Tiến và 150 tù chính trị đày ra nhà tù Côn Đảo- nơi được coi là “địa ngục trần gian”.
Tại đây, Nguyễn Hữu Tiến tham gia chi bộ bí mật và được cử vào Ban đại diện tù nhân. Tháng 4/1935, ông cùng một số đồng chí được Chi bộ Đảng nhà tù Côn Đảo bố trí, tổ chức vượt ngục lần thứ 2, thành công trở về và cùng các đồng chí tiếp tục gây dựng, phát triển phong trào cách mạng ở Nam Bộ.
Bấy giờ, ông được giao đảm đương trọng trách tại Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, Xứ ủy Nam Kỳ, phụ trách cơ quan ấn loát của Đảng, chỉ đạo in ấn nhiều tài liệu quan trọng, trực tiếp tham gia làm báo Dân chúng và có nhiều bài báo tuyên truyền về phong trào cách mạng Nam Kỳ.
Trong một bài viết về nhà cách mạng tiền bối Nguyễn Hữu Tiến của PGS, TS Trần Minh Trưởng và Thạc sĩ Đinh Thị Hoài (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng và từng được trình bày tại Hội thảo “Đồng chí Nguyễn Hữu Tiến - người chiến sĩ cộng sản kiên trung, tài năng, người con ưu tú của quê hương Hà Nam” do Tỉnh ủy Hà Nam (cũ) phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức tháng 4/2021, đã thông tin: Nhiều ý kiến và nhân chứng lịch sử cho rằng, trong thời gian này, Nguyễn Hữu Tiến được Xứ ủy Nam Kỳ trao nhiệm vụ vẽ cờ hiệu để sử dụng trong các cuộc đấu tranh cách mạng ở Nam Kỳ.
Ông đã vẽ lá cờ có nền đỏ và ngôi sao vàng năm cánh, thể hiện ý tưởng máu đỏ da vàng, tượng trưng cho dân tộc và sự đoàn kết các tầng lớp nhân dân bao gồm sĩ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Mẫu cờ đã được Xứ ủy Nam Kỳ nhất trí và đã xuất hiện lần đầu tiên trong Khởi nghĩa Nam Kỳ (ngày 23/11/1940)... Ý tưởng của Nguyễn Hữu Tiến khi sáng tạo ra lá cờ được khắc họa rõ nét trong những câu thơ của ông:
“... Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sĩ - nông - công - thương binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh…”.
Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng cũng xuất hiện trong những lời thơ đầy xúc động nhắn nhủ lại anh em, đồng chí trước lúc ông bị đưa ra pháp trường: “Từ biệt hôm nay có mấy lời/…/Anh em đi trọn con đường nhé/ Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai"...
Trước ngày nổ ra Khởi nghĩa Nam Kỳ, tối 30/7/1940, đồng chí Nguyễn Hữu Tiến cùng đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn rơi vào tay mật thám Pháp. Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại và bị chính quyền thực dân đàn áp đẫm máu. Ngày 17/5/1941, thực dân Pháp mở phiên tòa xét xử và kết án tử hình đối với đồng chí Nguyễn Hữu Tiến và một số lãnh đạo khác của Đảng. Ngày 28/8/1941, ông ngã xuống tại trường bắn ở Ngã tư Giếng nước, Hóc Môn, Gia Định cùng với các đồng chí: Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai,…
Trước khi hi sinh, các đồng chí đã hô vang khẩu hiệu: “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm!”. Người viết bài đã có dịp vào thăm Khu di tích lịch sử cấp quốc gia Ngã Ba Giồng (thuộc xã Bà Điểm, Thành phố Hồ Chí Minh).
Đây là địa danh lịch sử đặc biệt ghi dấu tinh thần quật cường của các chiến sĩ đã hi sinh trong cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ, trong đó có nhà cách mạng tiền bối Nguyễn Hữu Tiến. Tại Nhà trưng bày của khu di tích, ảnh, họ tên và chức danh Thành ủy viên Sài Gòn - Chợ Lớn của đồng chí Nguyễn Hữu Tiến được đặt trang trọng cùng với các nhà cách mạng tiền bối: Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai,…
Tại quảng trường, phía trước dựng mô phỏng hàng cọc bắn, phía sau là bức tường, bên trái phía trên in hình ngôi sao vàng 5 cánh, giữa là hình ảnh mô phỏng các chiến sĩ bị trói vào cọc, thân mang gông cùm, xiềng xích, bên phải là dòng chữ “Sống vĩ đại, chết vinh quang”. Tượng đài trong khu di tích cũng mô phỏng các chiến sĩ bị địch trói vào cọc bắn, chân bị xiềng nhưng tư thế vẫn hiên ngang bất khuất. Cuối năm 2012, di hài Liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến cùng chiếc cùm sắt xiềng chân ông khi bị bắn được đưa về an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam (nay là phường Đồng Văn, tỉnh Ninh Bình).
Ở Thành phố Hồ Chí Minh có những trường học, con đường mang tên Nguyễn Hữu Tiến. Tại Trường THPT Nguyễn Hữu Tiến (xã Đông Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh), bức tượng bán thân người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Hữu Tiến được đặt trang trọng trong khuôn viên nhà trường, phía sau là hình ảnh lá cờ Tổ quốc với ngôi sao vàng 5 cánh, bên trên đắp dòng chữ nổi “Tiên học lễ, hậu học văn”.
Tại Ninh Bình hiện nay cũng có một số ngôi trường, con đường mang tên Nguyễn Hữu Tiến. Nguyễn Hữu Tiến, người con kiên trung của quê hương Lũng Xuyên trở thành tượng đài bất tử và mãi được khắc ghi trong lịch sử vẻ vang của dân tộc, mãi là niềm tự hào, là ngọn đuốc soi đường cho các thế hệ hôm nay và mai sau trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển quê hương, đất nước.