Thư pháp truyền thống là nghệ thuật viết chữ Hán, chữ Nôm của các bậc thánh hiền, túc nho, những người quyền quý xưa, được ra đời cùng với nền nho học ở nước ta và đã sớm trở thành một môn nghệ thuật viết chữ truyền thống độc đáo. Thư pháp hiện đại là thư pháp chữ Việt hay thư pháp Việt ngữ, là chữ Quốc ngữ được thể hiện theo lối viết thư pháp. Tuy nhiên, ranh giới giữa truyền thống và hiện đại chỉ mang tính ước lệ. Bởi vì, trong nghệ thuật thư pháp truyền thống, vẫn có tính hiện đại với những lối viết cách tân con chữ, và ngược lại, trong cách thể hiện thư pháp hiện đại vẫn mang yếu tố truyền thống, đó là sự kế thừa những nét đẹp vốn có của lối viết xưa.
Quá trình hình thành chữ Hán, trong đó chữ tượng hình được chú trọng hàng đầu. Chữ Nôm không chỉ là thành tựu văn hóa của nước ta mà còn là biểu tượng cho tinh thần dân tộc tự cường, được hun đúc qua nhiều thế hệ, kết tinh trong tâm hồn của người Việt, nhất là giới trí thức và cũng chú trọng dạng tự tượng hình. Chữ tượng hình được viết theo hình tượng khái quát của các vật thể để tạo thành chữ. Nó là ký hiệu với các nét chữ có tính cách điệu và được chồng đặt liên tiếp lên nhau tạo thành chữ Hán Nôm. Trên các thư họa được treo như một bức tranh, thường chỉ thấy một chữ Hán Nôm như chữ "Tâm", chữ "Phúc", chữ "Đức", chữ "Lộc", chữ "Nhẫn"… được viết thanh thoát, uyển chuyển ở chính giữa khổ giấy; cũng có thể theo từng cặp gọi là đôi liễn, được viết trên vải, giấy dó, giấy xuyến chỉ và thậm chí còn thể hiện ngay trên quạt giấy. Đây là những tác phẩm nghệ thuật thư pháp hoàn mỹ, gửi gắm tâm hồn riêng của mỗi tác giả vào từng nét nhấn, từng con chữ để ca ngợi cái tâm, cái đức, cái trí… của con người.
Đối với các nhà thư pháp, dù thể hiện theo phương pháp truyền thống hay hiện đại, hoặc kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, điều quan trọng nhất là phép cầm bút, điều khiển ngọn bút, điểm hoạch, bố cục của khuôn chữ hoặc các hàng chữ. Để một thư pháp với bút pháp nghệ thuật đạt đến trình độ của một thư họa, người cầm bút nhất thiết phải giải quyết được hai yếu tố chính là nội dung và hình thức của con chữ. Về hình thức phải đạt được sự cân đối về hình dáng, với bút pháp khô, ướt, đậm, nhạt, nhấn, lướt… khác nhau, với sước cạnh uyển chuyển trong từng nét "xổ", nét "mác" của ngọn bút lông mảnh dẻ. Về nội dung phải thể hiện được tâm hồn, ý tưởng, sự biểu cảm tạo nên phong cách riêng, trình độ thẩm mỹ riêng của tác giả ở nghĩa của chữ hoặc nội dung câu thơ trang trí trên góc của mỗi bức tranh và được khẳng định bởi dấu triện son mang tên tác giả đối với từng tác phẩm. Hơn nữa, là sự hòa quyện giữa nội dung và hình thức của cặp phạm trù triết học trong quá trình hình thành thư pháp, để đạt tới trình độ thư họa cho người đời thờ chữ, treo chữ và ngắm nghía thưởng ngoạn như một bức tranh đẹp.
ở nước ta, những người viết chữ thư pháp đẹp danh tiếng đã được sử sách ghi nhận. Thời Trần có quan Nhập nội Hành khiển Phạm Sư Mạnh, Thái học sinh Nguyễn Trung Ngạn, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi... Thời Lê - Trịnh có vua Lê Thánh Tông, vua Lê Cảnh Hưng, Trung thư giám chính tự Ngô Ninh, Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm (chúa Trịnh Sâm), Nguyễn Nghiễm... thời Nguyễn có các danh sỹ như Cao Bá Quát, Bùi Văn Dị, Nguyễn Tư Giản và cả vua Thiệu Trị.
Ngày nay, chữ Việt đã thay thế chữ Hán, chữ Hán Nôm của các cụ xưa, nhưng nền Nho học đã tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta vẫn còn được lưu lại bằng nghệ thuật chạm khắc gỗ trên các bức hoành phi treo ở trung đường của các ngôi chùa, nhà thờ họ tộc và các bức đại tự thường được treo ở gian giữa phía trên bàn thờ tổ tiên của các gia đình, kèm theo là các câu đối thường treo đối xứng ở hai bên; các bia đá, bia khắc trên vách núi; các chữ lồng trong khung để thờ, để chiêm ngưỡng như một bức tranh nghệ thuật; các sắc phong của vua, đối với những người đỗ đạt, người có công với dân chúng và triều đình, với đất nước… được viết bằng chữ Hán Nôm, với bút pháp chuẩn mực, duyên dáng mang tính nghệ thuật cao.
Di sản thư pháp ở nước ta qua các thời kỳ còn truyền lại và được lưu giữ đến nay tương đối phong phú, đa dạng. Chỉ riêng ở vùng đất Ninh Bình, nghệ thuật thư pháp đã hình thành từ rất sớm. Tương truyền, sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, thu giang san về một mối, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế (năm 968), đặt tên nước và may cờ hiệu. Cờ hiệu nước Đại Cồ Việt vừa dài, vừa rộng, với chữ "Thái Bình" chính giữa uy nghi, lộng lẫy, với bút pháp siêu phàm và được thể hiện bởi những bàn tay khéo léo của nghệ nhân vùng Cố đô Hoa Lư, với những đường kim mũi chỉ thêu kim tuyến uyển chuyển vừa "chân" vừa "lệ". Trương Hán Siêu (? - 1354) người làng Phúc Am (nay là phường Vân Giang, thành phố Ninh Bình), quan Thái phó đời Trần là người đã khởi xướng và khai bút lối đề thơ khắc đá ở núi Dục Thúy. Bài thơ "Dục Thúy sơn khắc thạch" khắc trên đá đầu tiên, lấy cảnh đẹp của núi sông để giãi bày nỗi lòng của người ở ẩn và những bài thơ khắc trên vách núi của vua Lê Thánh Tông, vua Lê Hiến Tông, vua Lê Tương Dực, vua Thiệu Trị và thơ khắc trên đá của các trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa với nét chữ mềm mại, phóng khoáng là một tư liệu vô cùng quý giá không chỉ về thơ mà dưới góc nhìn về nghệ thuật thư pháp của ông, cha ta để lại từ thế kỷ thứ XIV. Trong đó, tấm bia khắc bài thơ "Ngự chế đề Dục Thúy sơn" (Thơ vua đề trên núi Dục Thúy) của vua Lê Hiến Tông, chạm khắc năm 1501, quan sát kỹ Hán tự trên mặt bia không hề thấy có vết xước, hoặc những nét khắc lỡ tay, lỡ đục của người nghệ nhân chạm khắc đá xưa. Có lẽ, đây là một trong những tấm bia ma nhai khắc trên vách núi đẹp nhất, cầu kỳ nhất dưới bầu trời nước . Với những nét chạm khắc trên đá thanh thoát, nhấn lướt, xước cạnh, to nhỏ, nông sâu và uyển chuyển trong từng nét sổ, nét mác đã tạo ra những mảng sáng tối, đậm nhạt dưới ánh nắng nghiêng của buổi chiều tà, ta có cảm giác như một bức thư pháp phóng túng, tung hoành viết trên mặt giấy. Ai đã từng lên vãng cảnh chùa Bích Động, khi đứng ở sân chùa Trung nhìn lên vách núi cao, thấy vòm đá trên sườn núi đua ra che rợp cả góc chùa, có bức đại tự đề hai chữ Hán "Bích Động" (Bút tích của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm và Nguyễn Nghiễm phụng đề), với cỡ chữ cực lớn (71 cm x 55 cm) được khắc nổi trên vách đá từ năm 1774, đã minh chứng một cách hùng hồn nghệ thuật thư pháp của ông, cha ta thuở trước.
Trong không khí ấm áp của tiết trời đầu xuân, bên cạnh cành đào, chén trà, ly rượu và ẩm thực truyền thống như bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành… ngồi ngắm những bức tranh chữ, để cùng suy ngẫm về triết lý sống của tiền nhân, của những nhà thư pháp Việt ngữ đương đại, với những hoài vọng cầu mong cho một năm mới mạnh khỏe, may mắn tràn trề hạnh phúc và gửi gắm niềm tin khi đất nước đạt được những thành tựu rực rỡ về kinh tế, văn hóa, xã hội trên đường đổi mới, thật thú vị biết nhường nào.
Trần Lâm Bình