Tìm hiểu được biết, ban đầu, những từ mới, cách diễn đạt mới chỉ được chấp nhận trong một nhóm người nhất định. Nhưng sau đó, nhờ sự trợ giúp của các phương tiện công nghệ hiện đại như: điện thoại di động, mạng internet… tiếng lóng và ngôn ngữ "chat" nhanh chóng được lan rộng và trở nên phổ biến. Từ đó, khi nói chuyện trên mạng và trong giao tiếp hàng ngày, tiếng lóng được sử dụng thường xuyên, giới trẻ coi đó là ngôn ngữ hiện đại, theo trào lưu, phong cách của thế hệ mình.
Khảo sát của nhóm học sinh lớp 10 dưới sự hướng dẫn của giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn tại Trường THPT Đinh Tiên Hoàng (thành phố Ninh Bình) khi thực hiện đề tài: "Vấn đề sử dụng ngôn ngữ mạng xã hội ở học sinh khối 10, Trường THPT Đinh Tiên Hoàng - thực trạng và giải pháp" (Đề tài đạt giải ba cấp trường trong cuộc thi KHKT dành cho học sinh trung học và được chọn tham dự cuộc thi cấp tỉnh) cho thấy, hầu hết học sinh lớp 10 các trường THPT trong tỉnh đều sử dụng ngôn ngữ mạng giống nhau ở cả nam và nữ, với phong cách nói chuyện và sự thể hiện khá nhiều tiếng lóng, câu từ tục tĩu và đặc biệt giản tiện tối thiểu về chữ viết.
Theo đó, nhóm học sinh thực hiện đề tài đã phát phiếu khảo sát cho 396 học sinh lớp 10 trường THPT Đinh Tiên Hoàng, một số trường THPT trên địa bàn thành phố Ninh Bình như Ninh Bình-Bạc Liêu, Trần Hưng Đạo; trường THPT Hoa Lư A (huyện Hoa Lư) và một số trường khu vực nông thôn các huyện Nho Quan và Gia Viễn. Nội dung phiếu điều tra tập trung khảo sát một số vấn đề như: Độ tuổi, giới tính, thời gian sử dụng mạng xã hội trong ngày, ngôn ngữ mạng có giống với văn bản học tại trường, bạn thích sử dụng ngôn ngữ nào, theo bạn ngôn ngữ mạng xấu hay tốt và nguyên nhân khiến nhiều học sinh sử dụng ngôn ngữ mạng...
Em Hoàng Thị Quỳnh Anh, học sinh lớp 10, thành viên tham gia đề tài: "Vấn đề sử dụng ngôn ngữ mạng xã hội ở học sinh khối 10, trường THPT Đinh Tiên Hoàng - thực trạng và giải pháp" cho biết: Qua kết quả khảo sát cho thấy, 100% học sinh đều sử dụng mạng xã hội; trung bình khoảng 9 lần/ngày, mỗi lần khoảng 3-10 phút (đối với học sinh nữ) và khoảng 8 lần/ngày, mỗi lần khoảng 1-7 phút (đối với học sinh nam). Cách sử dụng ngôn ngữ giữa học sinh nữ và học sinh nam không quá khác biệt: Học sinh nam thường sử dụng kiểu viết giản lược, câu cú không được rõ ràng, thường dùng những từ ngữ khá tục tĩu, bậy bạ; học sinh nữ thường sử dụng biểu tượng cảm xúc và kiểu viết cắt xén giản lược, tuy cấu trúc câu của học sinh nữ rõ ràng hơn học sinh nam nhưng tần suất xuất hiện các từ nói bậy, tục tĩu thì không hề ít hơn…
Một trong những phương thức sử dụng tiếng lóng hiện nay của học sinh là dùng các từ loại như: danh từ, động từ, tính từ… để nhấn mạnh hoặc gây sự chú ý đối với sự việc được nói tới, chẳng hạn như: "chim cú", "tạch rùi", "a kay", "vãi lúa"… Thêm vào đó là sự lai căng, pha tạp giữa tiếng tây-ta, ngay cả khi giao tiếp với người lớn tuổi, chẳng hạn như: "sory chị", "thanh kiu bác", "ô kê thầy"... Thậm chí, trong nhiều trường hợp, tiếng lóng bị lạm dụng, như khi hỏi thăm sức khỏe người lớn tuổi thì: "Sức khỏe của bác có ngon lành cành đào không?", hỏi bạn ăn cơm chưa thì: "Mày đã đớp, hốc chưa?", đi xe máy luồn lách thì "Thằng ấy xà lách tởm vãi!"… Việc "phối hợp" ngôn ngữ bừa bãi, tùy tiện, cách nói bỗ bã, chướng tai như vậy khiến đối tượng giao tiếp và người xung quanh cảm thấy khó chịu, phật lòng và nguy hiểm hơn, làm mất đi sự trong sáng vốn có của tiếng Việt.
Thực sự lo ngại với việc sử dụng ngôn ngữ của học sinh thời nay. Ảnh: MH
Cũng qua khảo sát, về thói quen và nguyện vọng sử dụng ngôn ngữ của học sinh THPT tại một số nhà trường trên địa bàn tỉnh cho thấy, hầu hết các em hay viết tắt trong cả văn bản nói và viết; thường xuyên kết hợp tiếng Anh xen tiếng Việt; hoạt động nói và viết thường không tuân theo chuẩn mực ngôn ngữ thông thường, có xu hướng đi theo trào lưu, làm biến đổi ngôn ngữ. Về nguyện vọng sử dụng ngôn ngữ, đa số học sinh được khảo sát cho biết, muốn ngôn Ngữ có văn hóa, ngắn gọn, dễ hiểu; da dạng, phong phú, dễ đọc, dễ nghe; thoải mái nhưng không phản cảm; theo trào lưu…, hướng tới tính văn hóa trong ngôn ngữ; tuy nhiên, thực tế khi sử dụng, hầu hết các em lại lạm dụng ngôn ngữ mạng, sử dụng các biểu tượng cảm xúc, chèn biểu tượng, tạo nên những cách viết, cách đọc xa lạ, "bóp méo" tiếng Việt.
Cô giáo Tô Thị Hồng Nhung, giáo viên bộ môn Ngữ văn, trường THPT Đinh Tiên Hoàng (thành phố Ninh Bình) cho rằng, thực tế, nhiều khi đọc, chấm bài kiểm tra, bài thi của học sinh, có những câu không hiểu các em muốn diễn đạt vấn đề gì, vì câu chữ quá ngắn, lủng củng và sử dụng khá nhiều ngôn ngữ ký tự, ký hiệu, như: "ah" (à), "ko" (không), "bit" (biết), "thik" (thích), "wa" (quá), "bih" (bây giờ)… Đấy là chưa kể, do sử dụng ngôn ngữ mạng thành quen nên các em rất hay viết tắt, viết sai chính tả. Như vậy, việc lạm dụng ngôn ngữ "chat" trong học tập với thời gian dài có thể khiến học sinh quên đi cách sử dụng từ ngữ theo đúng chuẩn mực, và xa hơn, khi thường xuyên sử dụng ngôn ngữ mạng một cách dễ dãi, bừa bãi, ít nhiều sẽ ảnh hưởng tới tính cách như: tùy tiện, hời hợt, cẩu thả…
Theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Nguyệt, Phó Trưởng khoa Tâm lý, Trường Đại học Hoa Lư, ngôn ngữ cần hiểu như là một thứ "tài sản" toàn dân, luôn vận động và biến đổi nhưng phải theo chiều hướng tốt lên, đáp ứng được thị hiếu người dân và biểu hiện của nền văn hóa. Việc sử dụng ngôn ngữ mạng như "con dao hai lưỡi", dùng nhiều sẽ thành quen, có thể dẫn đến việc giới trẻ sử dụng chệch hướng, biến nó thành ngôn ngữ trong nhà trường, trong các văn bản. Do vậy, các nhà quản lý giáo dục-văn hóa, các chuyên gia nghiên cứu… cần sớm có các cuộc khảo sát về mức độ sử dụng và tác động của ngôn ngữ mạng trong đời sống hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp để định hướng giới trẻ.
Cùng với đó, để đảm bảo tính chuẩn mực và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, qua các giờ học, các giáo viên cần khơi gợi cho học sinh niềm tự hào đối với tiếng Việt, giúp các em có ý thức giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc. Bên cạnh đó, trong cuộc sống hàng ngày, giáo viên, nhà trường cần phối hợp với gia đình trong việc nhắc nhở, điều chỉnh khi các em học sinh lạm dụng tiếng lóng, ngôn ngữ "chat" trong quá trình giao tiếp, nhất là khi tạo lập các văn bản đòi hỏi tính chuẩn mực cao, từ đó tạo dựng văn hóa ngôn ngữ cho học sinh, tạo nên lối sống văn minh trong trường học, xây dựng môi trường học đường thân thiện; giúp các em học sinh hoàn thiện việc phát triển nhân cách và trí tuệ ở bậc THPT - bậc học quan trọng gắn với việc lựa chọn và định hướng nghề nghiệp trong tương lai.
Hạnh Chi