I. Hoàn cảnh ra đời, nội dung, giá trị của di chúc
1. Hoàn cảnh ra đời
- Năm 1965, nhân dịp sinh nhật lần thứ 75, vào lúc 9 giờ sáng ngày 10/5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc với tiêu đề "Tuyệt đối bí mật". Đến ngày 15/5/1965, bản Di chúc đầu tiên này hoàn thành, gồm ba trang, có chữ ký của Bác và bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ ngày 10/5/1965 đến lúc kết thúc viết Di chúc ngày 10/5/1969, Bác nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung, viết lại. Năm 1966 và 1967, Bác không có những bản viết riêng. Năm 1968, Người viết bổ sung một số đoạn gồm 6 trang viết tay. Ngày 10/5/1969, Bác viết lại toàn bộ phần mở đầu Di chúc, gồm 1 trang viết tay.
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên được công bố trong Lễ tang của Người tháng 9/1969. Ngày 19/8/1989, Bộ Chính trị ra Thông báo số 151-TB/TW Về một số vấn đề liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Di chúc công bố chính thức năm 1969 đảm bảo trung thành với bản gốc của Người. Nội dung chủ yếu dựa theo bản Bác viết năm 1965, trong đó đoạn mở đầu là của bản viết năm 1969, đoạn về việc riêng là của bản viết năm 1968. Lúc đầu, vì những lý do nhất định, nên một số vấn đề trong Di chúc của Bác chưa được công bố, như: Việc căn dặn của Người về hỏa táng thi hài; việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi; miễn giảm thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp... Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1990), Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) đã quyết định công bố toàn bộ các bản viết Di chúc của Người.
2. Nội dung cốt lõi của Di chúc
- Trước hết nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định truyền thống đoàn kết chặt chẽ trong Đảng; yêu cầu thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng; giữ gìn Đảng ta thật trong sạch.
- Nói về đoàn viên và thanh niên, Bác nhấn mạnh vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khẳng định đây là đội hậu bị của Đảng, là người chủ tương lai của đất nước; yêu cầu Đảng phải chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho họ.
- Nói về nhân dân lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhân dân lao động bao đời chịu đựng gian khổ, bị nhiều áp bức bóc lột của phong kiến, thực dân; nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù, luôn đi theo và rất trung thành với Đảng. Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
- Dự báo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài nhưng nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, sau khi kháng chiến thắng lợi, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển đất nước; Đảng và Nhà nước phải quan tâm chăm lo tới mọi đối tượng trong xã hội, đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
- Về phong trào cộng sản thế giới, Người bày tỏ sự đau lòng vì sự bất hòa của các đảng anh em. Chủ tịch Hồ Chí Minh mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản có lý, có tình.
- Nói về một số việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ tiếc rằng không được phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Người căn dặn "Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân".
- Mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
3. Giá trị cốt lõi của Di chúc
a. Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng
Di chúc là Tâm nguyện của Người: "Suốt đời tôi hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa". ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với nhân dân của Người thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và ngày thống nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về công việc của sự nghiệp cách mạng còn dang dở. Di chúc là tâm sự của một người đã suốt đời hy sinh hạnh phúc riêng tư, hiến dâng trọn cuộc đời cho Tổ quốc và nhân dân; là tấm lòng chung thủy với "các nước anh em" và "bầu bạn khắp năm châu".
b. Di chúc là công trình lý luận về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền
- Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Đảng ta là Đảng cầm quyền" và nêu những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng, đó là: Giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên. Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Bác cũng dặn Đảng phải chăm lo phát triển lực lượng cho hiện tại và chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa "hồng" vừa "chuyên", có như vậy mới thực hiện thành công lý tưởng xây dựng một xã hội mới, tiến bộ, văn minh. Đồng thời, Đảng phải giữ mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các đảng cộng sản và bè bạn quốc tế, dựa trên nguyên tắc "nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình".
c. Di chúc là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam, là phác thảo lý luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta
- Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối quan hệ giữa công bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại, động lực lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con người, tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
- Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội.
- Giá trị văn hóa của Di chúc chỉ dẫn con đường, mục tiêu phát triển của nền văn hóa Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc vận động lớn giáo dục văn hóa trong toàn dân, toàn xã hội, lấy văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền và văn hóa trong thể chế nhà nước - một nhà nước dân chủ pháp quyền của dân, do dân, vì dân làm sức mạnh tiêu biểu nêu gương thuyết phục nhân dân. Qua lời dặn dò về việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn hóa mới; một lối sống tiết kiệm, không lãng phí; mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, môi trường sinh thái.
- Di chúc phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Người quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát triển; đổi mới là một cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian khổ, "là một công việc cực kỳ to lớn, nặng nề và phức tạp", là "cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi".
- Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện nước ta phải đặc biệt chú trọng phát huy khả năng sáng tạo của dân, "động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân".
3. Giá trị cốt lõi của Di chúc
a. Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng
Di chúc là Tâm nguyện của Người: "Suốt đời tôi hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa". ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với nhân dân của Người thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và ngày thống nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về công việc của sự nghiệp cách mạng còn dang dở. Di chúc là tâm sự của một người đã suốt đời hy sinh hạnh phúc riêng tư, hiến dâng trọn cuộc đời cho Tổ quốc và nhân dân; là tấm lòng chung thủy với "các nước anh em" và "bầu bạn khắp năm châu".
b. Di chúc là công trình lý luận về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền
- Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Đảng ta là Đảng cầm quyền" và nêu những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng, đó là: Giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên. Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Bác cũng dặn Đảng phải chăm lo phát triển lực lượng cho hiện tại và chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa "hồng" vừa "chuyên", có như vậy mới thực hiện thành công lý tưởng xây dựng một xã hội mới, tiến bộ, văn minh. Đồng thời, Đảng phải giữ mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các đảng cộng sản và bè bạn quốc tế, dựa trên nguyên tắc "nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình".
c. Di chúc là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam, là phác thảo lý luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta
- Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối quan hệ giữa công bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại, động lực lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con người, tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
- Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội.
- Giá trị văn hóa của Di chúc chỉ dẫn con đường, mục tiêu phát triển của nền văn hóa Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc vận động lớn giáo dục văn hóa trong toàn dân, toàn xã hội, lấy văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền và văn hóa trong thể chế nhà nước - một nhà nước dân chủ pháp quyền của dân, do dân, vì dân làm sức mạnh tiêu biểu nêu gương thuyết phục nhân dân. Qua lời dặn dò về việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn hóa mới; một lối sống tiết kiệm, không lãng phí; mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, môi trường sinh thái.
- Di chúc phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Người quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát triển; đổi mới là một cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian khổ, "là một công việc cực kỳ to lớn, nặng nề và phức tạp", là "cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi".
- Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện nước ta phải đặc biệt chú trọng phát huy khả năng sáng tạo của dân, "động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân".
II. Những thành tựu trong 50 năm thực hiên di chúc
1. Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Thực hiện Di chúc của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân cả nước đã đứng lên, sức mạnh của cả dân tộc được huy động cao độ vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng đã tập trung sức lực và trí tuệ lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc cách mạng đưa cả nước đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Mặc dù tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, vừa phải thường xuyên đối phó với những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động, vừa phải xây dựng cuộc sống mới từ một nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, vừa phải làm nghĩa vụ quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt lên gian khổ và thu được những kết quả hết sức quan trọng là khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh; xây dựng một số cơ sở vật chất; phát triển được một số ngành kinh tế quan trọng; thiết lập và củng cố chính quyền nhân dân trên phạm vi cả nước; phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế. Đồng thời tiến hành thắng lợi hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc.
2. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bước đầu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân
Thực hiện Di chúc của Người, trải qua 9 kỳ Đại hội Đảng, kể từ Đại hội IV đến Đại hội XII, Đảng ta đã ngày càng xác định rõ hơn những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, Đảng ta luôn coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, đồng thời ra sức xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội.
Công cuộc đổi mới đất nước sau hơn 30 năm đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
3. Xây dựng Đảng thực sự đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đảng và trong toàn xã hội
Để thực hiện những điều căn dặn về xây dựng Đảng của Bác viết trong Di chúc, Đảng ta đã xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trong mỗi giai đoạn cách mạng. Đảng ta luôn luôn ý thức tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng nhằm tăng cường sức mạnh và tính chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng đã được đặt ra trong nhiều nghị quyết của Đảng, từ nghị quyết của các Đại hội đại biểu toàn quốc đến nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII (tháng 2/1999) về "Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay"; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (tháng 01/2012) về "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (tháng 10/2016) về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ".
Các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng đã đề ra những chủ trương và biện pháp quan trọng về xây dựng Đảng, củng cố, kiện toàn và làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh công tác tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; khắc phục những yếu kém trong bộ máy các tổ chức của Đảng và Nhà nước.
Cùng với kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động và đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và trong toàn xã hội để chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chính trị chủ đạo trong đời sống của đất nước.
3. Bài học về thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình
Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất của Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta phải thực hành dân chủ thực sự. Nhờ dân chủ, Đảng đã khơi dậy, phát huy cao nhất trí tuệ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Nhờ dân chủ, trong Đảng đã khắc phục dần tình trạng bè cánh, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, quan liêu, hách dịch cửa quyền, xa rời quần chúng. Thực hành dân chủ rộng rãi nghĩa là phải dân chủ thực sự, dân chủ thường xuyên, dân chủ từ trung ương đến cơ sở. Nhưng, dân chủ phải gắn với tập trung. Tập trung dân chủ là nguyên tắc sống còn và cũng là biện pháp tốt nhất để xây dựng Đảng. Kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện trong thực hành dân chủ hình thức. Lợi dụng dân chủ để truyền bá những quan điểm, tư tưởng cá nhân, xâm hại đến lợi ích chung, gây mất đoàn kết trong Đảng, trong xã hội.
Thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc, là quy luật phát triển của Đảng. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh coi đây là biện pháp tốt nhất để củng cố, phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng. Người yêu cầu tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, nghiêm túc, không nể nang, qua loa đại khái, hình thức. Mục đích của tự phê bình và phê bình là giúp cho bản thân và đồng đội ngày càng tiến bộ hơn; tuyệt đối không vì mâu thuẫn cá nhân, động cơ cá nhân mà phê bình theo kiểu "vạch lá tìm sâu", "bới lông tìm vết" nhằm trù dập, đấu đá, hạ bệ lẫn nhau.
4. Bài học về sự quan tâm đặc biệt sâu sắc tới thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước
Đoàn viên, thanh niên là người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng. Những hạt giống tốt sẽ nảy nở, vươn cao những mầm xanh cho đất nước, quê hương. Bác căn dặn: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết". Công việc này "quan trọng" vì không ai khác ngoài các thế hệ thanh niên sẽ kế tục sự nghiệp cách mạng. Công việc này "cần thiết" vì tính cấp bách trước mắt cũng như sự nghiệp lâu dài; việc rèn luyện đạo đức cách mạng, việc xây dựng một thế hệ cách mạng đòi hỏi phải có thời gian của sự thử thách.
5. Bài học về chăm lo, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân
Sự quan tâm tới nhân dân là bổn phận, trách nhiệm của Đảng bởi lợi ích của Đảng không nằm ngoài lợi ích của dân tộc, của nhân dân. Có như vậy, nhân dân mới có niềm tin vững chắc vào Đảng; một lòng một dạ đi theo Đảng để cuộc sống càng ngày càng hoàn thiện hơn.
6. Bài học về tinh thần cống hiến cho lý tưởng cách mạng
Khi nói về việc riêng trong bản Di chúc của mình, Bác "chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa" cho Tổ quốc, cho cách mạng và cho nhân dân. Bác nhấn mạnh từ "phục vụ" nhằm nói rõ nhiệm vụ của người làm cách mạng là phải quên mình "phục vụ" Tổ quốc, nhân dân. Người cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người "đầy tớ" trung thành của nhân dân, không đòi hỏi một quyền lợi riêng cho mình, cống hiến trọn đời cho nhân dân, cho Tổ quốc.
V. 60 năm Bác Hồ về thăm Ninh Bình (1959 - 2019)
1.2. Lần thứ hai, ngày 10-2-1947, giữa lúc cuộc kháng chiến, kiến quốc chống thực dân Pháp diễn ra cam go, quyết liệt, để kêu gọi toàn dân ủng hộ kháng chiến, Bộ Canh Nông tổ chức Hội nghị Điền chủ toàn tỉnh Ninh Bình tại xã Lạng Phong, huyện Nho Quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về dự và chủ trì Hội nghị.
Phát biểu với Hội nghị, Hồ Chủ tịch chỉ rõ, đồng bào tản cư, di cư đã vì lòng yêu nước không chịu theo giặc, tiêu thổ kháng chiến, hy sinh nhà cửa, tài sản quê hương sơ tán về hậu phương để tiếp tục kháng chiến chống giặc xâm lược. Đồng bào ở địa phương có nhiệm vụ ân cần đón tiếp, chăm sóc, giúp đỡ bà con nhanh chóng có nơi ăn, ở, sản xuất. Muốn làm được việc này ta phải có kế hoạch cụ thể, chu đáo đến từng nhà, từng người. Ta phải đồng tâm hiệp lực giúp đỡ nhau. Các kỹ nghệ gia, thương gia, nông gia đều phải giúp vào việc này và phải giúp đỡ nhau để phát triển. Người mong muốn cán bộ tỉnh Ninh Bình, huyện Nho Quan, các điền chủ và nhân dân Ninh Bình hết sức cố gắng vào công việc này, sao cho Ninh Bình là một tỉnh kiểu mẫu cho các tỉnh noi theo.
Sau hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm tu viện Châu Sơn, nơi xin nhận 120 đồng bào tản cư đến ở. Người thăm nhà thờ lớn, khu tu hành. Từ linh mục đến các tu sỹ, người phục vụ đều hân hoan đón chào Người và đều hứa với Người sẽ tận tâm giúp đỡ đồng bào tản cư.
1.3. Lần thứ ba, ngày 15-3-1959
Sáng ngày 15-3-1959, nhân dân xã Khánh Cư (huyện Yên Khánh) đang cùng bộ đội đào con ngòi Chùa Cao để lấy nước từ sông Đáy dẫn vào cánh đồng Chằm thì Bác Hồ nhanh nhẹn bước trên cánh đồng tiến về phía đồng bào đang lao động. Bác ân cần thăm hỏi cán bộ, nhân dân và bộ đội. Bác động viên, khích lệ mọi người hăng hái lao động quên mình chống hạn cứu lúa và căn dặn đồng bào hãy "cố gắng làm thủy lợi để lấy nước cứu hàng vạn mẫu lúa và cày cấy hết số diện tích còn lại". Trước khi tạm biệt đồng bào, Bác trao cho đồng chí lãnh đạo xã Khánh Cư 5 chiếc Huy hiệu của Người để thưởng cho những cá nhân có thành tích chống hạn xuất sắc.
Trên đường trở về thị xã Ninh Bình, Người dừng xe xuống thăm bà con nông dân xã Ninh Sơn, huyện Gia Khánh (nay là phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình) đang tát nước tập đoàn cứu lúa bị hạn trên cánh đồng chân núi Cánh Diều.
Tại thị xã Ninh Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với hơn 2.000 đại biểu cán bộ và nhân dân. Sau khi khen ngợi, biểu dương những cố gắng và thành tích chống hạn và sản xuất, nêu rõ khuyết điểm, thiếu sót cần phải khắc phục, Người dặn dò "Cán bộ phải có quyết tâm chống hạn và quyết tâm phải liên tục, bền bỉ. Biến quyết tâm của cán bộ thành quyết tâm của nhân dân, đoàn kết giúp đỡ nhau…". Trước khi dứt lời, Bác nhắc nhở: "Nhân dân ta đã anh dũng trong kháng chiến, cần phải anh dũng trong sản xuất. Chúng ta phải thắng thiên tai, hạn hán, bão lụt… để sản xuất ngày càng được nhiều, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, đưa nước nhà dần tiến lên chủ nghĩa xã hội".
1.4. Lần thứ tư, ngày 18-10-1959
Ngày 18-10-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh về dự Hội nghị sản xuất vụ đông - xuân năm 1959 - 1960 tỉnh Ninh Bình do Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh Ninh Bình tổ chức. Mở đầu Hội nghị, Người nói: "Bác thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ đến hỏi thăm và nói chuyện với các cô, các chú về vụ sản xuất đông - xuân này". Tiếp đó, Người biểu dương, khen ngợi cán bộ và nhân dân Ninh Bình có nhiều thành tích trong vụ sản xuất đông - xuân 1958-1959, đã tích cực chống hạn cứu lúa, biết giữ nước và sản xuất khá. Người lưu ý các đại biểu bài học kinh nghiệm làm vụ đông - xuân vừa qua là "Phải đi đúng đường lối quần chúng trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch, phải biến quyết tâm của Đảng, của Chính phủ, thành quyết tâm của toàn thể cán bộ và quần chúng thì dù khó khăn mấy nhất định cũng khắc phục được và vụ đông - xuân nhất định sẽ tốt". Đồng thời, Người nhắc nhở những công việc trước mắt mà bà con nông dân Ninh Bình phải làm và ân cần khuyên cán bộ và nhân dân Ninh Bình muốn sản xuất vụ đông - xuân này thắng lợi thì phải nhớ và làm đúng tám điều:
"Nước phải đủ, phân phải nhiều
Cày sâu, giống tốt, cấy đều dảnh hơn
Trừ sâu, diệt chuột chớ quên,
Cải tiến nông cụ, là nền nhà nông
Ruộng nương quản lý ra công
Tám điều đầy đủ, thóc bông đầy bồ".
Cuối buổi nói chuyện, Người căn dặn Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình: "…phải đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong Đảng và ngoài Đảng, đoàn kết lương giáo… Đoàn kết chặt chẽ để thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà".
Như vậy, năm 1959 là năm vô cùng có ý nghĩa đối với Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình vì đã vinh dự được hai lần đón Bác về thăm. Đầu năm, Hồ Chủ tịch về thăm và kiểm tra công tác chống hạn tại một số tỉnh, trong đó có Ninh Bình; cuối năm, Người về dự Hội nghị sản xuất vụ đông - xuân năm 1959 - 1960 do Tỉnh ủy, ủy ban Hành chính tỉnh Ninh Bình tổ chức.
1.5. Lần thứ năm (và cũng là lần cuối cùng), ngày 20-7-1960
Ngày 20-7-1960, sau khi thăm một số nông trường quốc doanh ở Nghệ An, Thanh Hóa, trên đường về Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ đã tới thăm nông trường Đồng Giao, Tam Điệp, Ninh Bình. Bác đi tham quan các đội sản xuất, nhà ăn, nhà trẻ, khu chăn nuôi lợn, bò... Bác gần gũi, giản dị, đầy tình yêu thương với cán bộ, công nhân viên. Đến đâu, Bác cũng vui vẻ hỏi chuyện anh em công nhân và căn dặn phải tích cực sản xuất, phải chọn những cây trồng thích hợp, phù hợp với điều kiện tự nhiên để nâng cao năng suất, xứng đáng với hình mẫu đầu tiên của kinh tế quốc doanh nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Ngoài 5 lần về thăm Ninh Bình, Bác Hồ cũng thường xuyên quan tâm, theo dõi, viết thư thăm hỏi, khen ngợi, động viên khích lệ đồng bào Ninh Bình. Đặc biệt, bước sang năm 1969, do tuổi cao, sức khỏe giảm sút nhiều, Bác không về dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ X được. Ngày 26-5-1969, Bác đã gửi tặng Đại hội bức chân dung của Bác có ghi những lời dặn dò vô cùng quý báu đối với Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình "Khuyên cán bộ một lòng, một dạ phục vụ nhân dân. Chúc đồng bào các dân tộc đoàn kết chặt chẽ, sản xuất tốt, chiến đấu giỏi, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
Như vậy, mỗi lần Bác về thăm là một vinh dự to lớn không chỉ đối với riêng địa phương, đơn vị nơi Bác đến mà là niềm vui chung, vinh dự lớn lao đối với cả Đảng bộ và nhân dân tỉnh Ninh Bình. Đó là tình cảm, sự quan tâm ân cần, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân tỉnh ta; đồng thời cũng là những nhiệm vụ cách mạng quan trọng mà Bác mong muốn Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình cần phải tập trung thực hiện, bao gồm: Đoàn kết lương giáo, tăng gia sản xuất, diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; xây dựng củng cố chính quyền cách mạng, đoàn kết và dân chủ; xây dựng củng cố hậu phương, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất...
Trong 5 lần Bác về thăm Ninh Bình, dịp Bác về dự Hội nghị sản xuất vụ đông - xuân ngày 18-10-1959 là dịp thể hiện rõ nhất tình cảm sâu sắc của Bác với Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta. Hội nghị sản xuất vụ đông - xuân năm 1959 - 1960 tỉnh Ninh Bình do Tỉnh ủy, ủy ban Hành chính tỉnh Ninh Bình tổ chức trong 3 ngày, từ ngày 17 đến ngày 19-10-1959, với sự tham dự của hơn 1.300 đại biểu là cán bộ chủ chốt của các đoàn thể, các ngành từ xã đến tỉnh. Bác thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ về dự và nói chuyện với Hội nghị. Những lời dạy của Bác tại Hội nghị không chỉ gói gọn trong nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp, không chỉ có giá trị trong vụ sản xuất đông - xuân năm 1959 - 1960 và trong 3 năm thực hiện kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960) mà còn mang tầm bao quát và có ý nghĩa to lớn soi đường, chỉ lối cho Đảng bộ, quân và dân Ninh Bình trong sự nghiệp cách mạng lâu dài. Đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết ngoài Đảng, đoàn kết lương - giáo, thi đua sản xuất, thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hành tiết kiệm đều là những vấn đề căn cốt mà Đảng bộ, quân và dân Ninh Bình luôn phải khắc ghi và thực hiện tốt để vươn lên, phát triển vững mạnh về mọi mặt, góp phần cùng nhân dân cả nước đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc đến thắng lợi vẻ vang.
(Còn nữa)