Tạo thời cơ, nắm bắt đúng thời cơ, hạ quyết tâm chiến lược kịp thời, chính xác
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Mỹ và quân đồng minh buộc phải rút hết quân về nước. Nhưng, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, ngụy quyền Sài Gòn dưới sự viện trợ, chỉ đạo của Mỹ ngang nhiên phá hoại hiệp định. Chúng huy động hầu như toàn bộ lực lượng tiến hành chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, mở các cuộc hành quân “bình định, lấn chiếm” hòng tiêu diệt LLVT cách mạng, xóa bỏ vùng giải phóng, xóa bỏ chính quyền nhân dân, đứng đầu là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Thực chất là tiếp tục chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Trước âm mưu và hành động chiến tranh của địch, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21 (tháng 7-1973) nêu rõ, cách mạng miền Nam có thể phát triển theo hai khả năng: (1) Ta tích cực đấu tranh trên 3 mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, từng bước buộc địch phải thi hành Hiệp định Paris về Việt Nam, hòa bình được lập lại thật sự, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ tuy còn lâu dài, khó khăn, phức tạp, nhưng ngày càng phát triển và ở thế tiến lên mạnh mẽ; (2) Mỹ, ngụy tiếp tục vi phạm, phá hoại Hiệp định Paris, xung đột quân sự có thể ngày càng tăng, cường độ và quy mô chiến tranh ngày càng lớn, ta lại phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go, quyết liệt để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Hai khả năng diễn biến nói trên của tình hình miền Nam đều đang tồn tại và đang trong quá trình phát triển, song dù khả năng nào, “con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”. Yêu cầu cơ bản và bức thiết của cách mạng miền Nam lúc này là giành dân, giành quyền làm chủ và phát triển thực lực cách mạng. Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân ta trên chiến trường miền Nam kiên quyết đấu tranh đập tan những cuộc hành quân lấn chiếm và bình định của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng.
Cuối năm 1974, đầu năm 1975, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mạnh mẽ, mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Ta liên tiếp mở những đợt tiến công trên nhiều địa bàn trọng điểm tiêu diệt sinh lực địch, tạo thêm những bàn đạp vững chắc; tiêu biểu như Chiến thắng Thượng Đức “đánh tan Sư đoàn dù” (cuối năm 1974) chứng tỏ khả năng chiến đấu của chủ lực ta đã hơn hẳn quân chủ lực cơ động của địch; Chiến thắng Đường 14-Phước Long (từ ngày 13-12-1974 đến 6-1-1975) giải phóng toàn tỉnh Phước Long trở thành “đòn trinh sát chiến lược” cho thấy khả năng Mỹ sẽ không can thiệp trở lại bằng quân sự tại miền Nam Việt Nam...
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị họp, thảo luận kế hoạch giải phóng miền Nam. Hội nghị nhận định: Đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn. Hai mươi năm nhân dân cả nước chiến đấu mới tạo được thời cơ này. “Ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được, các thế lực xâm lược được hồi phục... thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng”. Trên cơ sở nhận diện đúng thời cơ, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà”.
Bộ Chính trị chủ trương giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, chia làm hai bước: Bước 1 (năm 1975), tranh thủ thời cơ, bất ngờ mở cuộc tiến công lớn và rộng khắp. Bước 2 (năm 1976), thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn thắng. Tuy nhiên, Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: Nếu thời cơ đến sớm hơn, vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Phải tranh thủ đánh thắng nhanh để giảm bớt sự thiệt hại về người và của cho nhân dân, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.
Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (từ ngày 18-12-1974 đến 8-1-1975) hạ quyết tâm giải phóng miền Nam là kết quả của sự chuẩn bị chiến lược chủ động, dũng cảm, sáng tạo, công phu, kiên trì, bền bỉ trên tất cả các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao, tiềm lực hậu phương và tiền tuyến, thế trận và lòng người... trong thời gian dài, thể hiện trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam trong “cuộc đụng đầu lịch sử” với đế quốc Mỹ và lực lượng phản động, tay sai; cho thấy tư duy nhạy bén, khả năng nhận diện, nắm bắt thời cơ và hạ quyết tâm chiến lược kịp thời, chính xác.
Chỉ đạo chiến lược kiên quyết, linh hoạt, sáng tạo
Thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược đề ra, sau một quá trình tích cực chuẩn bị, quân và dân ta mở Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4-3 đến 3-4-1975) làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch. Bằng thế trận bao vây, chia cắt và các đòn tiến công bất ngờ, quân ta lần lượt đánh chiếm các mục tiêu quan trọng: Thuần Mẫn, Đức Lập và Buôn Ma Thuột; đánh bại nỗ lực phản kích tái chiếm; buộc địch phải rút khỏi Kon Tum, Pleiku và toàn bộ Tây Nguyên. Ta tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2-Quân khu 2 ngụy quân Sài Gòn; giải phóng 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức và một số tỉnh Nam Trung Bộ. Chiến dịch Tây Nguyên làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng và thế chiến lược giữa ta và địch, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc tiến công chiến lược của ta phát triển thành tổng tiến công trên toàn miền Nam.
Ngay khi nhận tin thắng lợi bước đầu của Chiến dịch Tây Nguyên, đặc biệt là trận then chốt giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột (từ ngày 10 đến 11-3-1975) và thông tin địch rút toàn bộ lực lượng khỏi Tây Nguyên, nhận thấy thời cơ chiến lược thuận lợi, Bộ Chính trị đã họp bàn (ngày 18-3-1975), bổ sung quyết tâm chiến lược: Tranh thủ thời cơ, giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975 (kế hoạch hai năm được rút xuống còn một năm) và nhấn mạnh: Muốn hoàn thành nhiệm vụ cơ bản đó, nhiệm vụ trước mắt của quân và dân ta là mở đòn tiến công chiến lược thứ hai nhằm giải phóng Huế-Đà Nẵng và các tỉnh ven biển miền Trung.
Chấp hành chủ trương và sự chỉ đạo chiến lược, quân và dân ta đẩy mạnh tiến công địch ở Trị-Thiên, các tỉnh đồng bằng ven biển Trung Bộ, gây áp lực mạnh buộc địch phải thu dồn lực lượng về giữ các thành phố lớn là Huế và Đà Nẵng. Tranh thủ thời cơ địch co cụm, các đơn vị chủ lực của ta phối hợp chặt chẽ với LLVT cùng nhân dân địa phương nhanh chóng chủ động mở các đợt tiến công giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn; đồng thời, tổ chức các mũi thọc sâu, chia cắt địch, chặn đường rút chạy của chúng, hình thành thế bao vây địch trong các thành phố.
Ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã họp bàn, khẳng định: “Cuộc tổng tiến công chiến lược của ta đã bắt đầu với Chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ chiến lược mới đã đến”, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam, từ đó thống nhất quyết nghị: Tập trung nhanh nhất binh lực, vật lực giải phóng miền Nam trước mùa mưa (khoảng giữa tháng 5-1975). Kế hoạch một năm tiếp tục được rút xuống còn 5 tháng. Bộ Chính trị hạ quyết tâm mở chiến dịch lịch sử có ý nghĩa quyết định với quy mô lớn nhất: Chiến dịch Tổng công kích và nổi dậy giải phóng Sài Gòn. Nhưng muốn đi đến đòn quyết chiến chiến lược ấy, Bộ Chính trị chỉ đạo: Dứt điểm giải phóng Thừa Thiên-Huế; đồng thời tiến công Đà Nẵng kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng.
Nắm thời cơ lúc quân địch đang hoang mang dao động, các cánh quân chủ lực của ta đồng loạt tiến công, chỉ trong thời gian ngắn đập tan mọi tuyến phòng thủ của địch, giải phóng Huế (ngày 26-3-1975), Đà Nẵng (ngày 29-3-1975) cùng các tỉnh ven biển miền Trung; tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ lực lượng Quân đoàn 1-Quân khu 1 của địch, giáng đòn nặng nề vào ngụy quyền, ngụy quân Sài Gòn. Qua những chiến thắng này, các LLVT ta lớn mạnh vượt bậc, bộ đội thương vong ít, tinh thần và trình độ chiến đấu được nâng lên rõ rệt; thu được một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược của địch. Quân chủ lực của ta trong một thời gian ngắn đã tăng lên nhanh chóng, có sức cơ động khắp các chiến trường. Cục diện chiến tranh phát triển nhảy vọt hoàn toàn có lợi cho cách mạng.
Căn cứ vào những chuyển biến hết sức mau lẹ từ chiến trường, ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị họp bàn, nhận định: Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam phát triển nhảy vọt “một ngày bằng hai mươi năm”, thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn-Gia Định đã chín muồi. Từ đó, Bộ Chính trị quyết định: “Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng Tư năm nay, không để chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”. Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp. Tập trung lực lượng lớn hơn nữa vào những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc”. Kế hoạch 5 tháng tiếp tục được rút xuống còn 4 tháng.
Ngày 9-4-1975, quân ta tiến công Xuân Lộc-tuyến phòng thủ trọng yếu bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông của ngụy quân. Ngày 16-4-1975, quân ta đập tan tuyến phòng thủ Phan Rang. Ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị phê chuẩn chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 21-4-1975, quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy. Ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn ngày càng rơi vào tình trạng hoang mang. Mỹ lập cầu hàng không viện trợ khẩn cấp cho ngụy quyền, ngụy quân nhằm cứu vãn sự sụp đổ hoàn toàn, hy vọng tìm kiếm một giải pháp qua đàm phán. Ngày 22-4-1975, Bộ Chính trị họp bàn, phát lệnh: “Thời cơ để mở cuộc tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động trong lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không có lợi cả về quân sự và chính trị”.
Ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức bắt đầu. Tất cả các cánh quân của ta, bao gồm 4 quân đoàn (1, 2, 3, 4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) lần lượt đập tan các tuyến phòng thủ vòng ngoài, đồng thời hình thành các mũi thọc sâu đánh chiếm 5 mục tiêu trọng yếu trong nội đô Sài Gòn (dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tư lệnh Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát ngụy). Trưa 30-4-1975, Quân giải phóng tiến vào dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các ngụy quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống ngụy Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Đại thắng mùa xuân 1975 đã giải phóng miền Nam, kết thúc chặng đường 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh cách mạng. Chỉ trong vòng chưa đầy 2 tháng, ta đã đập tan chế độ Sài Gòn do Mỹ xây dựng; đồng thời ta cũng hạn chế tổn thất về người và vật chất (giữ thành phố Sài Gòn và nhiều thành phố miền Nam hầu như nguyên vẹn). Thành quả vĩ đại ấy do nhiều nhân tố tạo nên, nhưng nhân tố có ý nghĩa quyết định nhất là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, điều đó trở thành nét nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh rất đặc sắc của Trung ương Đảng từ bước tạo thời cơ, nắm bắt đúng thời cơ, hạ quyết tâm chiến lược kịp thời, chính xác đến chỉ đạo chiến lược kiên quyết, linh hoạt, sáng tạo.
Tìm hiểu nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta trong Đại thắng mùa xuân 1975, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Một là, dự báo, đánh giá đúng tình hình trong nước, khu vực và thế giới, nhất là sự thay đổi chiến lược của các nước lớn; nhận diện đúng thời cơ-thuận lợi, khó khăn-thách thức. Trên cơ sở đó, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp, đáp ứng đúng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự ổn định của hệ thống chính trị.
Hai là, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đề ra chủ trương, hoạch định đường lối chiến lược toàn diện về chính trị, quân sự, quốc phòng, ngoại giao... bảo đảm giữ vững nguyên tắc, mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, nhưng linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; đánh giá đúng đối tác, đối tượng trên cơ sở mục tiêu cao nhất là bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc.
Ba là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Đây là yêu cầu khách quan, chủ trương chiến lược, nhất quán của Đảng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh hiện nay, quán triệt và thực hiện có hiệu quả chủ trương trên còn là phương thức tối ưu để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ những giải pháp: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng và nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân; tập trung xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh; kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ, đối ngoại với tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng.
Bốn là, không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Đây là truyền thống quý báu của dân tộc, là vấn đề trung tâm mang ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam. Để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, cần thực hiện hiệu quả một số vấn đề trọng tâm: Phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam làm nòng cốt chính trị trong khối đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội tạo động lực và niềm tin của nhân dân; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và phát huy quyền dân chủ của nhân dân, khơi dậy tinh thần yêu nước nồng nàn và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.
Năm là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ. Sau 50 năm giải phóng miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, nhưng hiện nay cũng còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra còn hiện hữu và ngày càng gay gắt. Để tiếp tục đảm đương vai trò lãnh đạo trong giai đoạn mới, Đảng ta phải tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, nâng tầm bản lĩnh và trí tuệ, thật sự mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Nửa thế kỷ đã trôi qua, song Đại thắng mùa xuân 1975 vẫn là đề tài thu hút sự quan tâm tìm hiểu của nhiều nhà chính trị, quân sự, sử học... cả trong và ngoài nước. Nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh tài tình, sáng tạo của Đảng là “sợi chỉ đỏ”, là nhân cốt làm nên chiến tích huy hoàng đó, vượt lên trên mọi toan tính của kẻ thù và để lại những bài học lịch sử lớn, sâu sắc đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.