Đồng chí Lý Thị Hương, Phó Chi cục trưởng Chi cục Dân số-KHHGĐ tỉnh cho biết: Năm 2018, công tác Dân số - KHHGĐ của tỉnh tiếp tục nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền; sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành, các tổ chức, đoàn thể xã hội từ tỉnh đến cơ sở, tạo môi trường thuận lợi về chính sách, nguồn lực; các chương trình, các đề án được triển khai đồng bộ, có hiệu quả; công tác truyền thông, tư vấn vận động được tổ chức thường xuyên, liên tục, từ đó đã nâng cao nhận thức và chuyển đổi hành vi của nhân dân trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác Dân số - KHHGĐ.
Hoạt động truyền thông và cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ được triển khai với nội dung phong phú, đa dạng. Người dân được trang bị những thông tin, kiến thức về dân số, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình và nâng cao chất lượng dân số tại các hội nghị cung cấp kiến thức và trên đài truyền hình, đài truyền thanh, panô, tờ rơi, áp phích... giúp cho người dân tìm hiểu thông tin, kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ và tham gia các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình.
Trong năm, Chi cục Dân số - KHHGĐ tỉnh đã tổ chức 201 hội nghị cung cấp kiến thức cho các nhóm đối tượng tại các xã, phường, thị trấn; Trung tâm Dân số - KHHGĐ các huyện, thành phố phối hợp với Ban Dân số - KHHGĐ các xã, phường, thị trấn tổ chức gần 1.000 hội nghị cho hàng chục nghìn đối tượng, cung cấp kiến thức phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân số, đặc biệt là tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 21, Chương trình hành động số 22 của Tỉnh ủy về công tác dân số trong tình hình mới; nội dung các mô hình đề án nâng cao chất lượng dân số, chăm sóc SKSS/KHHGĐ, sàng lọc trước sinh và sơ sinh, chăm sóc sức khỏe người cao tuổi cho các nhóm đối tượng tại các xã, phường, thị trấn...
Bên cạnh đó, hoạt động truyền thông, cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ được triển khai thường xuyên tại cơ sở cũng như tư vấn các dịch vụ KHHGĐ tốt nhất cho phụ nữ. Đã có 16.190 lượt phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được khám phụ khoa, trong đó phát hiện 6.476 trường hợp viêm nhiễm đường sinh sản; tư vấn, điều trị cho 6.325 trường hợp, chuyển tuyến 188 trường hợp; khám thai cho 6.520 phụ nữ mang thai; tiêm phòng uốn ván cho 4.437 phụ nữ mang thai. Về các biện pháp KHHGĐ đã đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch năm, với tổng các biện pháp tránh thai lâm sàng là 9.985 ca, đạt 114% kế hoạch; trong đó triệt sản 78 ca, đạt 65% kế hoạch; dụng cụ tử cung 7.716 ca, đạt 74% kế hoạch; cấy tránh thai 91 ca, đạt 37% kế hoạch; tiêm tránh thai 2.100 ca, đạt 122% kế hoạch.
Trong năm, do tiếp tục làm tốt công tác y tế, công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, công tác sàng lọc trước sinh, sàng lọc sơ sinh nên tuổi thọ trung bình của người dân trên địa bàn tỉnh đã được cải thiện rõ rệt. Cùng với đó, các mô hình, đề án nâng cao chất lượng dân số của tỉnh như Đề án "Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh", "Kiểm soát dân số vùng biển, đảo, ven biển", "Tăng cường tư vấn và cung cấp dịch vụ Dân số - KHHGĐ cho vị thành niên và thanh niên"... được triển khai tích cực và hiệu quả ở các huyện, thành phố, góp phần nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần.
Đồng chí Phó Chi cục trưởng Chi cục dân số-KHHGĐ tỉnh Lý Thị Hương cũng cho biết, bên cạnh những kết quả đạt được trong năm thì vẫn còn một số hạn chế về tỷ lệ sinh con thứ 3 và tỷ số mất cân bằng giới tính khi sinh còn cao trên địa bàn tỉnh. Để khắc phục những tồn tại và phát huy những kết quả đã đạt được, năm 2019, Chi cục tiếp tục quán triệt các văn bản của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân số, đặc biệt là tinh thần Nghị quyết số 21, các Chương trình hành động, Kế hoạch của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Ninh Bình, Sở Y tế... về phát triển dân số trong tình hình mới.
Đồng thời phát triển dân số với quy mô, cơ cấu, phân bố phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh; duy trì vững chắc mức sinh thay thế; hạn chế tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh, nâng cao chất lượng dân số và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH và sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Phấn đấu giảm tỷ lệ sinh 0.15‰; tốc độ gia tăng mất cân bằng giới tính khi sinh ở mức 0.2 điểm %; tỷ lệ sàng lọc trước sinh 75%; tỷ lệ sàng lọc sơ sinh 50%.
Bài, ảnh: Tiến Minh