Vì vậy, việc sưu tập và giới thiệu các tác phẩm thơ văn xưa khắc đá đã được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm và đã có nhiều bài thơ, bài ký, bài minh khắc đá ở vùng đất này, được chép chữ Hán Nôm, phiên âm, dịch nghĩa và chú giải. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó, một số tài liệu lưu trữ trong các thư viện và một số tuyển tập, cuốn sách đã xuất bản và lưu hành ở trung ương và địa phương, trong đó có một số bài thơ tuyển chọn còn đang nhầm lẫn tên tác giả, các ký tự… cuốn sách viết sau chép lại nguyên bản thơ của các cuốn sách viết trước, nên những dị bản so với nguyên bia chạm khắc trên vách núi cứ lặp đi, lặp lại. Một trong những tài liệu nằm trong tình trạng trên đây là các sách, tuyển tập chép bài thơ "Nhớ Trương Thăng Phủ" chạm khắc trên núi Dục Thúy.
Bài thơ chạm khắc trên đỉnh của cửa hang thông nhau theo hướng Bắc Nam, trong cụm bia nằm ở mỏm cao nhất trên Dục Thúy sơn. Bia có hình chữ nhật đứng, mặt bia quay về hướng Đông Bắc, với kích thước chiều cao 43 cm và chiều rộng 33 cm. Bia không có đường diềm ngoài, để tạo mặt phẳng khắc chữ, những người thợ xưa đã đục sâu vào thớ đá từ 3 cm đến 7 cm so với mặt bắng vách núi. Trên mặt bia có 9 dòng, phía phải chạm khắc nội dung bài thơ và phía trái là những dòng tịnh dẫn và lạc khoản. Bài thơ "tứ tuyệt", chạm khắc trên mặt bia mỗi câu một dòng theo hàng dọc, trình tự từ phải sang trái, từ trên xuống dưới. Phần tịnh dẫn và lạc khoản tất thảy khắc 5 dòng, cỡ chữ nhỏ bằng nửa so với chữ khắc trong nội dung bài thơ. Chữ Hán chạm khắc nông, chữ không được sắc nét, chứng tỏ người viết mẫu chữ và tay nghề tốp thợ đều thua kém so với một số bia xung quanh. Hiện bia còn nguyên vẹn, trong đó các chữ Hán khắc nội dung bài thơ vẫn còn rõ nét, nhưng 5 dòng tịnh dẫn và lạc khoản phía trái bia một số chữ đã mờ rất khó đọc, trong đó hai chữ "niên" và "thượng" có hiện tượng bị đục xóa.
Căn cứ nguyên bia ma nhai đang hiện hữu trên vách núi Dục Thúy, sau khi chép chữ Hán, chúng tôi phiên âm, dịch nghĩa, bài thơ và phần lạc khoản được dịch như sau:
Phiên âm:
Vi ức Trương Thăng Phủ,
Trùng đăng Dục Thúy san.
Tư công bất đắc kiến,
Đồ ỷ bích vân gian.
Tiền Ninh Bình Tuần phủ thăng thụ Hải Dương Tổng đốc hiệp tá Đại học sĩ Từ tướng công húy Đạm nguyên đề
Bảo Đại thập bát niên mạnh đông nguyệt thượng cán
Do tử
Ninh Bình tuần phủ Từ Bộ Thực phụng tuyên.
Dịch nghĩa:
Vì nhớ Trương Thăng Phủ
(Từ Đạm) lại lên núi Dục Thúy.
Nhớ thương người mà chẳng thấy,
Bước đi nghiêng ngả giữa màu xanh mây trời.
Nguyên là Tuần phủ Ninh Bình, sau được thăng chức và chuyển về Hải Dương là Tướng công họ Từ, húy là Đạm giữ chức Tổng đốc Hiệp tá Đại học sỹ đề bài thơ này.
Niên hiệu Bảo Đại thứ 18, thượng tuần tháng đầu mùa đông (đầu tháng 10, năm 1943) Bởi con, là Từ Bộ Thực đang giữ chức Tuần phủ Ninh Bình khắc bia này, kính dâng!
Dịch thơ:
Nhớ Trương Thăng Phủ
Vì nhớ Trương Thăng Phủ
Lại lên Dục Thúy chơi
Tìm Người mà chẳng thấy
Nghiêng bước giữa mây trời!
Từ Đạm đề bài thơ này
Trần Lâm Bình dịch
Đề tài NCKH "Thơ xưa khắc đá ở Ninh Bình"
Hầu như những ấn phẩm xuất bản trước đây, trong đó có tuyển chọn bài thơ "Nhớ Trương Thăng Phủ" trên đây, đều chép tên tác giả là Thực Thái Ngạc hoặc Thái Ngạc.
Tuy nhiên, khi đọc hai dòng đầu trong phần lạc khoản: "Tiền Ninh Bình Tuần phủ thăng thụ Hải Dương Tổng đốc hiệp tá/ Đại học sĩ Từ tướng công húy Đạm nguyên đề" cho ta biết: Trước đây Tướng công họ Từ, húy là Đạm (Từ Đạm) từng là Tuần phủ Ninh Bình, sau được thăng chức và chuyển về Hải Dương giữ chức Tổng đốc Hiệp tá Đại học sĩ, đã đề bài thơ này. Như vậy, Từ Đạm là tác giả bài thơ "Nhớ Trương Thăng Phủ". Tiếp đến, đọc dòng lạc khoản thứ ba: "Bảo Đại thập bát niên mạnh đông nguyệt thượng cán", ta biết thêm thời điểm chạm khắc tấm bia trên: niên hiệu Bảo Đại thứ 18, thượng tuần tháng đầu mùa đông" (đầu tháng 10, năm 1943). Dòng lạc khoản thư tư: "Do tử". Tuy dòng lạc khoản này chỉ vẻn vẹn có hai Hán tự, nhưng cho biết người này là con của Từ Đạm và do người này đã chạm khắc tấm bia. Và dòng lạc khoản cuối cùng: "Ninh Bình Tuần phủ Từ Bộ Thực phụng tuyên", ta biết được Từ Bộ Thực đang giữ chức Tuần phủ Ninh Bình vâng mệnh (cha) chạm khắc tấm bia này, kính dâng. Như vậy, thông qua nội dung 5 dòng lạc khoản, ta có thể khẳng định: Tác giả bài thơ là Từ Đạm. Và Từ Bộ Thực đã khắc bài thơ của cha mình trên núi Dục Thúy (không phải tác giả bài thơ là Thực Thái Ngạc hay Thái Ngạc, như các tuyển tập, tài liệu đã in ấn và lưu hành).
Nếu chỉ đọc những bút tích của Tuần phủ Từ Đạm đã từng đục đẽo trên núi Dục Thúy khi đang giữ chức Tuần phủ Ninh Bình, như bia khắc bài "Phong nguyệt nhĩ câu thích" và đục lốt hai bàn chân của mình trên đỉnh núi, ta có cảm giác đó là những vết sạn đã làm xước một viên ngọc quý là núi thơ Dục Thúy. Tuy nhiên, khi đọc tấm bia "Cúc Nhân đoàn tọa" với nội dung Tuần phủ Từ Đạm quyến luyến khi phải chia tay núi Dục Thúy để đi nhậm chức mới ở tỉnh Hải Dương và nhất là đọc tấm bia "Nhớ Trương Thăng Phủ", do người con trai là Từ Bộ Thực phụng khắc thơ của người cha trên đây… thì chúng ta có một nhận thức khác về Từ Đạm. ở góc độ nào đó, Từ Đạm là người không phải chỉ có những lời chê trách như ta vẫn thường nghe, mà còn có tấm lòng nhân ái, nhớ và biết ơn những người đi trước như Trương Thăng Phủ.
Trần Lâm Bình