Chầu văn xưa kia được lưu hành chủ yếu trong không gian các đền, miếu, phủ và tập trung phổ biến tại các lễ hội truyền thống, khắp các địa phương trong nước. Với hát và diễn xướng (múa), chầu văn chính là một dạng thức nghệ thuật dân gian (folklore) tổng hợp.
Sự hình thành, lưu truyền, bổ sung, giao thoa, biến hóa của các dạng thức nghệ thuật dân gian của dân tộc nói chung, trong đó có nghệ thuật hát chầu văn (bao gồm cả đàn, hát và diễn xướng) là cả quá trình lâu dài, phức tạp. Về âm nhạc, đến nay nghệ thuật hát chầu văn đã trải qua nhiều sự biến đổi, thêm bớt về tiết tấu, điệu thức. Trong âm nhạc, hát chầu văn ở miền Bắc có những làn điệu quen thuộc của hát chèo, ca trù, hát xẩm xoan... Ngày nay, nhiều trường hợp người ta sử dụng những chất liệu âm nhạc đặc trưng chầu văn để cấu trúc thành những tổ khúc mới. Về nguồn gốc hình thành, căn cứ vào một số nguồn sử sách thì sớm nhất nghệ thuật hát chầu văn, "hát trước mặt đế vương" đã hình thành từ thời Trần (thế kỷ XIII) ở nước ta.
Sân chùa Trình, nơi thường diễn ra hát chầu văn, ca trù mùa hội Yên Tử . Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn có ghi: "Thời Trần có lối hát trước mặt đế vương, gọi là hát chầu". Rất có thể "Lối hát trước mặt đế vương" ở thời Trần (hay từ trước đó nữa) chính là những bài hát, những điệu hát chầu văn hình thành sớm nhất, sơ khai nhất?! "Dấu tích hậu Lê" khá rõ trong hát chầu văn cổ truyền. Đó là những dấu tích của cả một trường kỳ lịch sử với sự khởi xướng và phát triển của không ít loại hình nghệ thuật dân tộc còn lưu tồn đến nay, trong đó nghệ thuật đàn, hát chầu văn. Riêng trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, từ xa xưa đã lưu truyền nghệ thuật hát chầu văn ở các đền, phủ, miếu, đặc biệt ở những nơi thờ mẫu, vào dịp lễ hội, ngày xuân, đầu tháng, ngày rằm... Bởi vì Ninh Bình là một vùng đất có Kinh đô Hoa Lư cách nay đã nghìn năm, đồng thời là một trong những cái nôi của nghệ thuật hát chèo cổ truyền. Ninh Bình là vùng đất cực Nam đồng bằng Bắc bộ, có khá nhiều đền, phủ, miếu, điện thờ mẫu, tập trung ở những vùng đồi núi như: Tam Điệp, Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Yên Mô. Không gian của chầu văn cổ truyền là nơi trước điện thờ. Hát chầu văn trong các đền, phủ, miếu thường có kết hợp với hầu bóng (nhập vai mẫu hay một chư vị thần thánh nào đó). Người xưa quan niệm đó là một phương cách hữu hiệu để mọi người có thể giao tiếp với các mẫu, với các chư vị nhân thần để bày tỏ nguyện vọng và nỗi niềm thầm kín. Đặc biệt, các mẫu trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam là biểu tượng có cội nguồn từ sâu thẳm nơi ký ức của cả cộng đồng dân tộc...
Trong mỗi dịp lễ hội, ngày xuân, dịp "Tháng Tám giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ", các cung văn (người đàn, hát chầu văn) được dịp trổ tài những ngón đàn, điệu hát đặc sắc và trao đổi, học hỏi lẫn nhau. Trong cuộc đời "tác nghiệp" của mình, mỗi cung văn thường đi đây đó nhiều nơi để vừa hành nghề, vừa học hỏi đồng nghiệp. Có những cung văn đã nhập tâm được hầu hết các giá văn chầu mẫu, chầu các ông hoàng, bà chúa. Song có lẽ hơn ai hết, các cung văn người địa phương (nơi có đền, phủ thường có hát chầu văn) có điều kiện thuận lợi để tiếp thu được tinh hoa sáng tạo đặc sắc về đàn và hát được quy tụ về đây từ bốn phương.
Từ trong các đền, phủ, miếu với vai trò là một phương tiện nghệ thuật phục vụ tín ngưỡng, nghệ thuật hát chầu văn đã "chuyển mình", được đưa lên sân khấu, truyền lên làn sóng điện vào khoảng đầu thập kỷ sáu mươi của thế kỷ trước để đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa nghệ thuật của đông đảo nhân dân. Đó dường như là một quy luật. Đã có người nhận xét: "Người đương thời hát dân ca theo tâm trạng và nhạc điệu của thời đại mình. Tới giai đoạn lịch sử chín muồi, bản thân nó sẽ bùng lên và trở thành một "cái khác" mới hơn, mạnh hơn, tiến bộ hơn. Sự chuyển mình của một vùng dân ca nào đó lên sân khấu là một nhu cầu chính đáng và cấp bách trong đời sống văn hóa". Nói một cách khác, nghệ thuật hát chầu văn vốn từ nơi thờ cúng, từ không gian tâm linh xưa kia, được phổ biến rộng rãi trong đời thường, chính là từ cõi thiêng bước ra cõi tục.
Tại Liên hoan các trích đoạn chèo hay toàn quốc, tổ chức tại Ninh Bình năm 1993, tiết mục "Ba giá đồng" (ba giá văn) lần đầu tiên được đưa lên sân khấu đã được đông đảo khán giả tán thưởng rất nồng nhiệt.
Đến nay đã có nhiều bài hát quen thuộc có tên gọi mới là hát văn. Về cơ bản, các bài hát văn đều có nội dung ca ngợi đất nước, quê hương, ngợi ca đời sống, nhịp sống mới, với những chất liệu âm nhạc đặc sắc, tươi vui, sống động được chắt lọc từ âm nhạc chầu văn cổ truyền.
Trên địa bàn cả nước nói chung, tỉnh Ninh Bình nói riêng, âm nhạc chầu văn trên sân khấu nghệ thuật và trên làn sóng điện ngày càng được nhiều khán, thính giả ưa chuộng. Câu hát văn hôm nay đã là một món ăn tinh thần hấp dẫn, quen thuộc đối với mọi người dân.
Nguyễn Quang Hải