18 giờ ngày 30/3/1954, đợt tiến công thứ hai của quân ta vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu. Lần này, quân ta không tiến đánh một vị trí đơn lẻ mà nổ súng tiến công trên toàn mặt trận. Trong cuốn Hồi ký "Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử", Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp nhớ lại: Sau khi kết thúc đợt tấn công lần thứ nhất và công tác đào hào, chuẩn bị trận địa đã hoàn thành, ngày 27/3/1954, các cán bộ từ trung đoàn trở lên lại quay về Sở Chỉ huy Mường Phăng nhận nhiệm vụ tác chiến đợt 2. Nhiệm vụ cụ thể trao cho từng đơn vị như sau: - Đại đoàn 312, được phối thuộc hai Đại đội sơn pháo 75 ly, hai Đại đội súng cối 120 ly, một Đại đội súng cối 82 1y, có nhiệm vụ tiêu diệt các cao điểm E, D1, D2 thuộc trung tâm đề kháng Đôminích, và dùng một đơn vị thọc sâu đánh vào vị trí pháo binh địch ở cao điểm 210, và Tiểu đoàn dù 5 hoặc Tiểu đoàn dù 6 của Pháp cơ động ở khu vực này. - Đại đoàn 316 (thiếu một Trung đoàn), được phối thuộc hai Đại đội sơn pháo 75 ly hai Đại đội súng cối 120 ly, có nhiệm vụ tiêu diệt các cao điểm A1, C1, C2 thuộc trung tâm đề kháng Eliane, và phối hợp với các đơn vị khác tiêu diệt lực lượng dù cơ động. - Đại đoàn 308 có nhiệm vụ dùng hỏa lực kiềm chế pháo binh địch ở phái Tây Mường Thanh, dùng các đơn vị bộ đội nhỏ tích cực tấn công nghi binh các cứ điểm 106 và 311 nằm trong cụm Huguette ở phía tây, cử một Tiểu đoàn tham gia bộ phận thọc sâu vào tung thâm khu Đông để tiêu diệt Tiểu đoàn ngụy Thái số 2; phân công trận địa pháo binh của ta phối hợp với Trung đoàn 98 của Đại đoàn 316 tiêu diệt lực lượng dù cơ động của Pháp. - Trung đoàn 57 của Đại đoàn 304, được phối thuộc Tiểu đoàn 888 (Đại đoàn 316), một Đại đội lựu pháo 105 ly, một Đại đội súng cối 120 ly, 18 khẩu trọng liên cao xạ 12,7 ly, có nhiệm vụ kiềm chế các trận địa pháo binh địch ở Hồng Cúm, chặn quân tiếp viện từ Hồng Cúm lên Mường Thanh, đánh quân nhảy dù ở xung quanh và phía Nam Hồng Cúm. - Đại đoàn 351 trực tiếp yểm hộ bộ binh tiến công cứ điểm: A1, D1, C1, E, chế áp pháo binh địch, sát thương và tiêu diệt một lực lượng cơ động địch ở tung thâm phía Đông Mường Thanh, kiềm chế pháo binh địch. Riêng Trung đoàn pháo cao xạ 367 yểm hộ đắc lực cho bộ binh và pháo binh chiến đấu cả ngày và đêm. Đây là trận công kiên có quy mô lớn nhất từ khi quân đội ta thành lập cho đến thời điểm diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ. Khi mở đầu chiến dịch tamới chỉ đánh từng trung tâm đề kháng, từng tiểu đoàn đóng riêng lẻ, lần này ta đánh vào một khu vực gồm nhiều trung tâm đề kháng với nhiều tiểu đoàn đóng riêng lẻ, một khu vực gồm nhiều trung tâm đề kháng với nhiều tiểu đoàn. Trận tấn công thứ hai của quân ta kéo dài từ ngày 30/3 đến ngày 22/4/1954.
Đúng 18 giờ, ngày 30/3/1954, quân ta đồng loạt nổ súng tiến công các cao điểm phía Đông phân khu Trung tâm. Mở đầu trận đánh, pháo binh ta dồn dập nhả đạn vào Sở Chỉ huy của Đại tá Đờ Cát-xtơ-ri cùng các điểm cao C1, D1, E1, các trận địa pháo và khu vực quân cơ động của Pháp ở Mường Thanh và Hồng Cúm. Quân Pháp hoang mang, không kịp trở tay đối phó do bị bất ngờ. Tại cao điểm C1, quân ta lần đầu mở rào bằng đạn phóng bộc lôi. Bộc lôi nổ phá tung từng đoạn rào. Sau 5 phút, Tiểu đoàn 215 của Trung đoàn 98 đã dọn xong cửa mở qua bảy lần rào dây thép gai. Chớp thời cơ hỏa lực địch đang còn tê liệt, Tiểu đoàn trưởng Bùi Hữu Quán hạ lệnh xung phong. Đường dây điện thoại với Trung đoàn bị đứt. Nghe tiếng súng bộ binh nổ trên cứ điểm, Trung đoàn ra lệnh cho pháo chuyển làn. Chỉ bằng một đợt xung phong mạnh, trong 10 phút, Đại đội 38 đã chiếm được chiếc lô cốt nằm trên mỏm đất cao nhất, nhô lên trên đỉnh đồi, được gọi là mỏm Cột Cờ. Tiểu đội trưởng mũi nhọn Nguyễn Thiện Cải cắm lá cờ Quyết chiến Quyết thắng lên nóc sở chỉ huy. Quân Pháp dồn về những lô cốt ở khu vực phía tây, gọi pháo bắn vào trận địa. Các chiến sĩ xung kích dùng lưỡi lê, lựu đạn lao lên đánh giáp lá cà. Trận đánh diễn ra đúng 45 phút. Toàn bộ Đại đội 140 lính thuộc Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 4 Ma rốc bị tiêu diệt hoặc bắt sống. Quân ta chỉ bị thương vong 10 người. Đồi C2 kế tiếp C1 bởi một dải đất hình yên ngựa. 23 giờ, một Trung đội của Đại đội 35, do Đại đội phó và Chính trị viên chỉ huy, vượt qua yên ngựa đột nhập được một đoạn hào của C2. Trung đội nhanh chóng phát triển chiếm liên tiếp 11 lô cốt và ụ súng. Nhưng lực lượng phía sau qua nhiều lần xung phong đều bị hỏa lực rất mạnh của quân Pháp cản lại. Tiểu đoàn 215 quyết định lui về C1 tiếp tục chuẩn bị tạo điều kiện tiến công C2 ban ngày.
Tại cao điểm D1, Trung đoàn 209 sử dụng hai Tiểu đoàn 166 và 154, thời gian mở cửa đột phá cũng diễn ra nhanh. Chỉ sau 5 phút, ở hướng chính, Tiểu đoàn 166 đã phá xong ba lượt hàng rào và xung phong vào căn cứ. Bộ đội nhanh chóng thọc sâu chia cắt đội hình quân Pháp ra từng mảng để tiêu diệt. Chiến sĩ thi đua Trần Can, vừa được đề bạt Trung đội trưởng, một lần nữa lại băng lên cùng với Tiểu đội đi đầu chiếm từng ụ súng, từng góc chiến hào. Tuy nhiên, ở hướng phụ, giao thông hào đã bị quân Pháp lấp mất 50 mét, tiểu đoàn 154 tiến vào gặp lầy, mở cửa chậm bị hỏa lực trong đồn khống chế, phải mất gần một giờ mới lọt vào trong đồn. Viên Đại úy Jean Garandeau, Chỉ huy Tiểu đoàn 3 Angiêri của Pháp bị pháo vùi chết trong hầm của Sở Chỉ huy. Sau hai giờ chiến đấu, quân ta chiếm toàn bộ đồi D1. Tại cao điểm E, pháo nổ đúng lúc diễn ra cuộc thay quân của Pháp giữa một Đại đội của Tiểu đoàn 3 Angiêri với Đại đội của Tiểu đoàn dù 5 tới thay thế theo lệnh của Trung tá Pierre Langlais, Chỉ huy trưởng Binh đoàn đổ bộ đường không số 2 của Pháp. Binh lính Pháp với đầy đủ trang bị đang tập trung dọc giao thông hào không có hầm trú ẩn chạy xô vào nhau. Đại đội súng cối hạng nặng của quân Pháp nằm giữa vị trí chưa kịp bắn loạt đạn nào đã bị pháo của ta tiêu diệt. Hai mũi tiến công của bộ đội thuộc Tiểu đoàn 16 và Tiểu đoàn 428 (Trung đoàn 141) mở cửa qua hàng rào dây kẽm gai và bãi mìn. Sau một giờ xung phong áp đảo, bộ đội chiếm toàn bộ cứ điểm. 19 giờ 45 phút, Trung đoàn trưởng Quang Tuyến báo cáo hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt đồi E. Đại đoàn tiếp tục điều Tiểu đoàn 130 tiến công sang D2, các đơn vị vừa chiếm được đồi E phát triển vào các ngọn đồi ở phía trong. Cuộc chiến đấu kéo dài cho đến khi trời sáng.
Tại đồi A1, Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An chủ động ra lệnh cho hỏa lực của Trung đoàn bắn vào cứ điểm yểm hộ cho xung kích mở cửa. Một nửa giờ đã trôi qua. Lúc này, pháo binh Pháp đã hồi sức, bắn dữ dội vào cửa mở. Các lô cốt, ụ súng ở tiền duyên dồn đạn về phía các chiến sĩ bộc phá để lùa những ống thuốc nổ phá hàng rào. Phải mất hơn nửa giờ, hai mũi tiến công của các Tiểu đoàn 251 và 249 của quân ta mới vượt qua 100 mét rào và bãi mìn lọt vào đồn. Quân Pháp đã dựa vào địa thế tự nhiên của quả đồi, bố trí công trình phòng thủ thành ba tuyến. Bên ngoài, ở tiền duyên là tuyến chống cự chủ yếu. Tuyến trung gian có đặt trận địa hỏa lực. Trên đỉnh đồi là tuyến cố thủ và Sở Chỉ huy. Trong cứ điểm có nhiều tuyến chiến hào và giao thông hào liên hoàn. Tất cả các lô cốt và hầm trú ẩn đều có nắp đậy, chịu được đạn súng cối và pháo. Lực lượng của quân ta đã phải chịu tổn thất nhiều để vượt qua cửa mở. Lúc này cuộc chiến đấu trên những cao điểm khác đã kết thúc, quân Pháp dồn tất cả hỏa lực đại bác và súng cối vào A1 mong cứu vãn tình hình. Các đợt xung phong của Tiểu đoàn 255 của quân ta cũng không vượt qua hàng rào lửa đại bác. Quá nửa đêm ngày 30/3, cuộc chiến đấu tại A1 vẫn diễn ra giằng co. Mỗi bên giữ được nửa đồi. Sở Chỉ huy quân ta nhận định: Bộ đội đã hoàn thành phần quan trọng nhiệm vụ đợt 2, nhưng vẫn chưa chiếm được cao điểm phòng ngự then chốt A1. Trung đoàn 174 do Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An chỉ huy đã sử dụng cả lực lượng dự bị, không còn khả năng giải quyết A1; Trung đoàn 98 đánh xuống C2 không thành công, đã bị tiêu hao, cần điều một đơn vị khác tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt A1, và phòng ngự ở C1 ban ngày. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định: Các đơn vị khẩn trương tổ chức trận địa phòng ngự trên các cao điểm C1, D1, E, chuẩn bị đánh địch phản kích ban ngày, quyết không để địch chiếm lại. Đại đoàn 308 đưa Trung đoàn 102 từ phía Tây sang phía Đông, tiếp tục tiến công tiêu diệt A1 và phòng ngự tại C1.
Các mỏm đồi có tính sống còn đối với tập đoàn cứ điểm, đặc biệt là các đồi A1, C1, D1. Một mặt, quân Pháp dựa vào hầm ngầm, lô cốt để cố thủ và đưa quân từ các điểm khác dùng xe tăng và lính dù, lính lê dương phản kích các cứ điểm này vì có tính sống còn với quân Pháp. Ngày 31/3, đơn vị dù xung kích số 8 của Pháp lợi dụng màn khói đại bác bò lên điểm D1. Lúc này hầu hết chiến sĩ cảnh giới đã tử thương khi pháo của quân Pháp bắn phá. Lê Xuân Quảng, Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 154, chỉ huy trận địa phòng ngự hy sinh. Sau 25 phút, quân Pháp chiếm lại gần hết đồi D1, dồn đại đội phòng ngự của ta vào một góc. Bộ đội ta dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh lui những đợt phản kích của quân Pháp, quyết tử giữ mảnh đồi còn lại. Tuy đường dây điện thoại đã đứt, nhưng đài quan sát Trung đoàn phát hiện kịp thời sự có mặt của quân Pháp trên D1. Trung đoàn lập tức dùng pháo bắn chặn và điều lực lượng lên tăng viện. Hai đại đội chi viện đã đảo lộn thế trận. Viên Đại úy Pichelin, Chỉ huy Đại đội dù xung kích của quân Pháp tử trận vì một tràng đạn tiểu liên. Thấy tình thế bất lợi, Đại úy Pierre Tuorret, Chỉ huy Tiểu đoàn xung kích dù số 8 của Pháp phải yêu cầu Thiếu tá Marcel Bigeard (Bi-gia) tiếp viện thêm lực lượng. Bi-gia đáp: "Tôi không còn gì trong tay. Nếu không giữ được nữa thì biến!". Sau 1 giờ chiến đấu, quân Pháp rút về Mường Thanh. Bi-gia không chiếm lại được Đôminích 2 (D1) mà còn phải bỏ luôn cả Đôminích 5 (D3) do một đại đội Thái bảo vệ và rút trận địa pháo tại Đôminích 5 (210), vì biết những cao điểm này không thể đứng vững nếu đã mất Đôminích 2. 1 giờ 30 chiều cùng ngày, Bi-gia trực tiếp chỉ huy hai Tiểu đoàn dù 6 và 5 tiến lên C1. Đại đội 273 của Trung đoàn 102 của ta đã có mặt trên cao điểm từ buổi sáng cùng với bộ phận còn lại của Đại đội 35 Trung đoàn 98 đánh trả. Lần này quân Pháp chiếm được điểm cao Cột Cờ, đẩy những chiến sĩ phòng ngự của ta vào thế bất lợi. Pháo binh không thể tiếp tục yểm hộ vì không phân biệt được vị trí 2 bên. Các chiến sĩ của ta đã lấy vải dù trắng buộc lên đầu súng làm chuẩn cho pháo binh. Trong lúc pháo nổ dồn dập, Trung đoàn 98 của ta đưa một bộ phận tăng viện theo đường hào mới đào phía đồi D, cùng với những người phòng ngự đánh bật quân Pháp khỏi Cột Cờ, khôi phục lại trận địa. 16 giờ, Bi-gia buộc phải ra lệnh rút lui, để lại trận địa gần 100 lính Pháp tử trận. Những cuộc phản kích của quân Pháp ngày 31/3/1954 đã hoàn toàn thất bại. 10 giờ tối, Trung tá Pierre Langlais gọi điện thoại cho Bi-gia, hỏi có thể giữ được những gì còn lại trong đêm nay không! Bi-gia trả lời: "Thưa Trung tá, chừng nào còn một người sống sót, tôi sẽ không bỏ Eliane (A1)". A1 đã trở thành "thành lũy cuối cùng" của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Trận chiến đấu trên đồi A1 diễn ra vô cùng căng thẳng, khốc liệt và thiệt hại cho cả hai phía, dằng co, kéo dài đến tận chiều ngày 3/4/1954 thì tạm ngừng. Hai bên cố gắng củng cố và giữ vững phần đồi đã chiếm được.
Ngày 6/4/1954, dưới sự chủ trì của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Bộ Chỉ huy chiến dịch tổ chức họp sơ kết đánh giá đợt tiến công thứ hai. Hội nghị nhận định: Sau năm ngày chiến đấu, ở phía Đông ta đã chiếm được bốn ngọn đồi hiểm yếu, làm chủ một phần cao điểm then chốt A1, địch đã phải kéo pháo chạy khỏi cứ điểm 210; ở phía Tây ta chiếm thêm được các cứ điểm 106, 311. Phạm vi chiếm đóng của địch thu hẹp khá nhiều, lực lượng của chúng cũng bị tổn thất lớn. Nhưng ta chưa hoàn thành tất cả những mục tiêu đề ra, đặc biệt là chưa chiếm được hoàn toàn A1. Đây lại chính là một mục tiêu trọng yếu của đợt tiến công này! Những ngày sau đó, tại những vị trí quân ta chưa rứt điểm được vẫn tiếp tục diễn ra những cuộc chiến đấu giằng co. Quân Pháp mở nhiều đợt tiến công phản kích nhằm giành lại một số vị trí đã mất, nhưng cơ bản đều bị quân ta đánh lui và đánh tan... Từ sau đợt tiến công khu Đông, ta dự kiến thế nào quân Pháp cũng phản ứng quyết liệt. Bộ Chỉ huy chiến dịch nhận định mỗi khi chiếm được một vị trí , quân ta cần phải có một hỏa lực đủ mạnh để đập tan những đợt phản kích của quân Pháp. Trên có sở đó, 5 Đại đội lựu pháo và toàn bộ hỏa lực súng cối của hai Đại đoàn 308, 312 đã được tổ chức thành lực lượng hỏa lực thống nhất dưới một sự chỉ huy chung. Bộ Chỉ huy hỏa lực gồm các đồng chí Vương Thừa Vũ (Đại đoàn 308), Đàm Quang Trung (Đại đoàn 312), Nguyễn Thước (Đại đoàn 351) đặt tại Sở Chỉ huy của Đại đoàn 308. Các đại đội pháo đã tính toán sẵn phần tử bắn ở các ngã ba, cầu, đường khu vực tập kết của quân Pháp và cùng bộ binh xây dựng kế hoạch tác chiến. Trận đánh cuối cùng của đợt tiến công thứ 2 là trận quân ta tiêu diệt cứ điểm Huyghét vào đêm 22/4/1954, đây là trung tâm đề kháng khá mạnh nhằm bảo vệ sân bay Mường Thanh. Trận này, quân ta áp dụng thành công chiến thuật "đánh dúi", đào chiến hào, bí mật áp sát vào tận sâu trong đồn địch, đến nỗi quân Pháp có cảm giác bộ đội ta như "từ dưới đất chui lên" ngay giữa đồn địch. Trong vòng không đầy một giờ, bộ đội ta đã làm chủ hoàn toàn Huyghét 1. Phần lớn số 177 lính lê dương bảo vệ vị trí bị bắt sống. Bộ đội ta đã tiêu diệt được một vị trí quan trọng đo một đơn vị lê dương sừng sỏ của Pháp bảo vệ với tổn thất không đáng kể. 22 giờ đêm, quân ta chiến được đồn, vậy mà đến tận sáng, Sở Chỉ huy của Đờ Cát-xtơ-ri ở Mường Thanh vẫn chưa hề biết tin, mãi đến 7 giờ 30 ngày 23/4, khi một số tên lính Pháp thoát chết chạy về đây báo tin thì Sở Chỉ huy của Pháp mới biết. Cái chết không kịp cất tiếng kêu của Huyghét 1 đã làm cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ bàng hoàng. Từ giờ phút đó trở đi, mỗi khi đường hào của ta tới gần, quân Pháp ở trong cứ điểm không còn chỉ thấy đây là mối đe dọa mà chính là cái chết đã tới, một cái chết không báo trước, xuất hiện từ lòng đất. Trong thời gian mở đợt tấn công thứ hai, quân ta vừa dùng lực lượng nhỏ vây ép đánh lấn dưới mặt đất, vừa bắn máy bay, triệt nguồn tiếp tế, tiếp viện của địch. Bộ đội cao xạ cùng với các đơn vị súng máy phòng không của các đại đoàn bộ binh tạo thành một lưới lửa khống chế bầu trời Điện Biên Phủ trong tầm cao từ 3 km trở xuống. Máy bay địch phải thả dù từ độ cao trên 3 km, nên một phần ba số dù đã rơi vào khu vực trận địa của ta; trong đó có khá nhiều đạn dược các loại cùng nhiều lương thực, thực phẩm, thuốc men, trở thành nguồn cung cấp khá quan trọng cho quân ta. Quân và dân ta ngày càng thêm phấn chấn, tích cực khắc phục khó khăn về tiếp tế, nâng cao quyết tâm giành thắng lợi; ra sức củng cố và giữ vững những vị trí đã chiếm được; tích cực chuẩn bị trận địa để tập trung đánh chiếm nốt đồi A1 và bước vào đợt tiến công cuối cùng giành toàn thắng./. ----------------------------------------Nguồn tham khảo:- "Điện Biên Phủ - Văn kiện Đảng, Nhà nước". Nxb Chính trị Quốc gia, 2004;- "Điện Biên Phủ - tuyển tập hồi ký (trong nước)". Nxb Chính trị Quốc gia, 2004;- Hồi ký "Điện Biên phủ - Điểm hẹn lịch sử" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nxb Chính trị Quốc gia, 2004;- Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam;- vi.wikipedia.org. Theo Dangcongsan.vn |