Miền đất trẻ sinh ra cây cói
Ngay từ thời ấy, người dân Kim Sơn đã trồng cây lúa và cây cói. Họ còn lưu truyền một huyền thoại lý thú: Thời xa xưa, đã lâu lắm rồi, có một bầy tiên nữ bay qua cùng biển nơi đây. Thấy biển rộng mênh mông sóng sánh phù sa màu mỡ, nàng tiên út của trời mến cảnh đẹp ấy, đã cắt mái tóc dài mượt, óng ả của mình ném xuống để đánh dấu vùng biển. Gió thổi, sóng vỗ ngày đêm đã đẩy những sợi tóc của nàng trôi dạt vào bờ, gặp đất sa bồi, mọc lên thành rừng cây nhỏ, cao, thân xanh mỡ, tròn thon từ gốc, nửa trên đến ngọn vuốt thành 3 cạnh, búp hoa chụm chúm xanh, gọi là cây cói. Chu kỳ sinh trưởng của cây cói cũng gần như cây lúa. Cói vụ chiêm cũng thu hoạch vào tháng 5, còn cói vụ mùa thu hoạch vào tháng 10 (âm lịch). Khi hoa cói héo thì người dân thu hoạch cói. Con người lấy cây cói về phơi chỉ để lợp nhà, rồi đến một lúc nào đó, phát hiện ra nó, khi thân ngả vàng (đã chín), cắt sát gốc, bỏ chùm hoa trên ngọn, chẻ đôi, phơi kỹ, đem dệt với sợi vỏ cây đay làm thành chiếu để nằm. Từ đó nghề trồng cói và dệt chiếu đã có trên đất Kim Sơn.
Cây cói mới có ở miền đất trẻ này gần hai thế kỷ. Nhưng nó đã có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của huyện. Diện tích trồng cói ở Kim Sơn hiện nay có khoảng 600 ha. Bình quân sản lượng cói hàng năm đạt từ 7.000 đến 8.000 tấn cói chẻ. Không chỉ người dân Kim Sơn trồng cói, mà sau khi huyện Kim Sơn đắp đê lấn biển, bộ đội quai đê lấn biển cũng trồng cói. Cây cói đã là cây mũi nhọn, không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế cao, mà còn có tác dụng tham gia cải tạo bãi bồi ngập mặn.
Cây cói lên ngôi
Người dân Kim Sơn đã dùng cây cói làm thành nhiều sản phẩm như: Chiếu, thảm, làn, khay, hộp, đĩa, cốc, tách, túi xách, mũ … Những sản phẩm này đã vươn tới gần 20 nước trên thế giới. Nhưng chủ yếu họ dệt các loại chiếu như: Chiếu trơn (chiếu không cải hoa); chiếu đàn (chiếu trơn vào loại xấu), chiếu đậu (chiếu màu trắng ngà, làm bằng thứ cói tốt); chiếu hoa còn gọi là chiếu bông (chiếu có cải hoa hoặc in hoa), chiếu gon (chiếu dệt bằng thứ cói thân cao và dài), chiếu liền (chiếu hẹp khổ và dài), chiếu cạp (chiếu mép có viền vải); chiếu lõi; …
Chiếu cải hoa và chiếu đậu là mặt hàng đặc sản của Kim Sơn.
Chiếu cải hoa có bố cục đối xứng chặt chẽ đến nghiêm ngặt: cạp điều rộng, đường chỉ thẳng, 4 góc và xung quanh là những hoa văn đẹp, chữ "Thọ" bằng Hán tự tròn truyện vuông ở giữa, hai đường thẳng và cong biến cải hoa mỹ uyển chuyển ở hàng riễu 4 bên và tụ lại. Trên và dưới chữ "Thọ" còn có các hàng chữ cải: "Chúc mừng", "Hạnh phúc" hoặc "Cung chúc", "Tân Xuân" hài hòa, đẹp đẽ như một tác phẩm nghệ thuật, không tả hết thành lời.
Chiếu chỉ có 2 màu: đỏ tươi và trắng hồng. Màu trắng hồng là màu nền của chiếu, nõn nà như lụa. Màu đỏ tươi rực rỡ là màu cải hoa, cải chữ, thể hiện ước mơ của con người.
Khó khăn nhất vẫn là dệt chiếu đậu, đòi hỏi cầu kỳ và tinh xảo hơn. Phải chọn cói kỹ, sao cho đều, trắng ngà, dài thon, tròn tắp, mỗi sợi chỉ nhỉnh hơn cái nan hoa xe đạp. Sợi đay phải săn, nhỏ, mịn. Khi dệt phải làm cho chiếu có múi nổi nho nhỏ, gọi là múi na, trông như một kiểu hoa văn tự nhiên. Lá chiếu đậu đẹp một cách sinh động, chắc, thơm, bền đến 5-7 năm chưa rách. Chiếu đậu không chỉ bền, mà còn là nét đẹp trắng trong, càng nhìn càng thấy đẹp. Đó là một nép đẹp tinh khiết, trinh nguyên của cây cói, không màu sắc, không đua tranh, như tâm hồn thầm kín của người con gái kín đáo, dịu dàng.
Để làm ra một là chiếu cải hoa và chiếu đậu là cả một quá trình lao động sáng tạo, vất vả, thận trọng của người dân từ khâu trồng cói, chọn cói sao cho dài và đều, phơi cói sao cho trắng nõn, nhuộm cói sao cho đỏ tươi và bền màu, sợi đay dệt phải nhỏ và bền, đến khâu dệt cải hoa mang tính nghệ thuật cao. Người ngồi dệt chiếu, hai bàn tay cầm go đập vào, lại đẩy ra thoăn thoắt, đập go đến đâu bẻ biên đến đó, hết tay phải lại tay trái, ngón tay bắt biên như múa. Go làm bằng tre, có nhiều thanh như phím đàn pianô, mỗi thanh một lỗ giữ một sợi đay. Đập go mạnh, lá chiếu sẽ dày. Ngón tay cắt dát phải khéo léo, mềm mại như một nghệ sỹ bắt đàn phím. Mắt phải tinh, chính xác, thuộc từng nét cải để không đan lỗi. Nét chữ, đường họa tiết, hoa văn, đường chỉ cải to hay nhỏ, vuông hay tròn đều phải theo mẫu, tính chi li đến từng sợi cói, sợi đay dệt. Tùy từng kiểu hoa văn mà cắt dát từng sợi, để khi đệt khi thay đổi màu cói (xanh, đỏ, vàng, tím, trắng) lá chiếu sẽ nổi các loại hoa (hoa vuông, hoa cải chữ, hoa cánh, hoa núi,…).
Còn người văng cói phải để bên hai bó cói trở ngọn, gốc nhặt từng sợi cói, quấn vào đầu văng, lao nhanh vào giữa hai dàn sợi day. Nguyên tắc văng cói là: cứ 1 gốc lại 2 ngọn, 2 gốc lại 1 ngọn (nếu dệt chiếu đàn chỉ 1 gốc, 1 ngọn). Văng cói phải nhịp nhàng theo người dệt. Sự thuần thục của 2 người văng và dệt chiếu giống như bác sỹ và người mổ phụ trong ca phẫu thuật, tới mức không cần nhìn nhau vẫn hòa nhập, hoàn hảo.
Nhìn lá chiếu cải hoa nền nã và rực rỡ với nét chữ, hoa văn trang trí, mang vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, do bàn tay vàng, khéo léo, tỷ mỉ, tinh xảo của người dân Kim Sơn tạo ra, ai cũng muốn có một đôi chiếu "để nằm" trên "hạnh phúc", chữ "thọ" để sống lâu khỏe mạnh, ước mơ nảy nở vuông tròn trong cuộc đời, tất cả như đã dệt vào lá chiếu.
Sợi nối giữa Văn hóa - Kinh tế - Du lịch
Ngày nay, người dân Kim Sơn coi nghề dệt chiếu cải hoa và chiếu đậu là nghề truyền thống. Các xã Lưu Phương, Chính Tâm, Kim Trung, Thượng Kiệm, Văn Hải… của huyện, mỗi năm, mỗi xã sản xuất được từ 50.000 đến 70.000 lá chiếu. Trong toàn huyện, gần như nhà nào cũng có khung dệt chiếu. Sau những ngày thu hoạch lúa, người dân Kim Sơn già, trẻ, gái, trai, tùy theo từng công việc, ai nấy đều làm cói, người thì cắt cói, chẻ cói, phơi cói, nhuộm màu cho cói, người thì ngồi dệt cói, đan các mặt hàng thủ công mỹ nghệ bằng cói. Sợi cói dài dùng để dệt chiếu, sợi cói ngắn nhuộm nhiều màu sặc sỡ để đan làn, khâu thảm hoặc làm các mặt hàng mỹ nghệ. Điều đáng phấn khởi là ở Kim Sơn có nghề làm cói nên không có lao động dư thừa và cũng vì vậy, ít có những vụ việc tiêu cực. Hàng năm nhiều gia đình thu nhập thêm bằng nghề cói có từ 10 đến 20 triệu đồng.
Những cây cói dài, đẹp dùng để dệt chiếu, còn những cây cói ngắn, người dân Kim Sơn nhuộm các màu: xanh, đỏ, tím, vàng làm nhiều sản phẩm khác như: thảm, làn, khay, hộp, đĩa cốc, tách, túi xách, mũ … Để làm được những sản phẩm này, phải có những người sáng tạo ra mẫu. Còn người đan phải kéo kéo. Họ đều là họa sỹ, nghệ nhân tài năng. Đôi bàn tay vàng, tài hoa của họ như thổi hồn vào sản phẩm cói. Hầu như các cây cói dài hay ngắn, người dân đều tận dụng để làm cho các sản phẩm trên. Đặc biệt các loại làn cói được người dân sử dụng nhiều để đựng các thực phẩm khi đi chợ hoặc các đồ vật khác. Người nước ngoài rất thích các túi xách, mũ, hộp làm bằng cói. Các sản phẩm này vừa đẹp, nhẹ, lại thân thiện với môi trường.
Nét đặc thù của người dân Kim Sơn là ở các làng nghề đều mang tính chuyên nghiệp. Nhiều xã trong huyện chuyên dệt chiếu như: Văn Hải, Trì Chính, Lưu Phương, Chính Tâm, Thượng Kiệm, thị trấn Phát Diệm. Nhưng một số làng khác lại chuyên đan làn và các mẫu nhỏ để xuất khẩu. Làng Thủ Trung chuyên đan các sản phẩm mỹ nghệ như: hộp kiểu, hộp chùa Một Cột, giày, dép mẫu nhỏ. Các sản phẩm mỹ nghệ bằng cói này đã được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới.
Cây cói Kim Sơn mềm mại, óng ả như sợi nối giữa biển và bờ, giữa quá khứ và hiện tại, giữa Việt Nam và thế giới để vươn tới tương lai. Cao hơn nữa, nó là sợi nối giữa Văn hóa - Kinh tế - Du lịch. Rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến thăm Nhà thờ đá Phát Diệm - Một công trình kiến trúc độc đáo của dân tộc, khi trở về đều mua một số mặt hàng cói Kim Sơn về dùng hoặc đem trưng bày trong phòng khách, tự hào là mình đã đến Kim Sơn.
Phải chăng, cái tên "Kim Sơn" có nghĩa là "Núi Vàng", vì cây cói và cây lúa ở đây đã lên ngôi trên vùng đất mới, đất mở màu mỡ, có người dân cần cù lao động sáng tạo. Đó là sự đánh giá, khẳng định và cũng là ước mơ của người xưa, của nhà thơ kiêm nhà kinh tế nông nghiệp Nguyễn Công Trứ về một vùng đất bồi ven biển của tỉnh Ninh Bình - nơi xứ sở của tiếng chuông nhà thờ ngân vang - một vùng công giáo có tới hơn 140 nhà thờ lớn nhỏ, có nhà thờ đá Phát Diệm nổi tiếng đã và trồng cói, cây lúa để xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp.
Lã Đăng Bật